Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên


NGỌC PHƯƠNG NAM. Lần trước, chúng tôi đã giới thiệu Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích, mười bài thơ nổi tiếng vịnh thắng cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích do Đông Hồ dịch. Lần này  là bài Họ Mạc và khu kinh tế biển tây đầu tiên của Doãn Khởi đăng trên Sài Gòn tiếp thị cùng với bài Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên đúc kết thông tin đã cập nhật tại Wikipedia tiếng Việt. Ba bài trên là những phác thảo chân dung của Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích với công tích của cha con ông ở vùng đất Hà Tiên và phụ cận. Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã  nhận xét rất chí lý : “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”. Mạc Cửu là Tổng trấn Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc Trú.  Hai cha con và dòng họ Mạc là những người có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ).

Họ Mạc và khu kinh tế biển tây đầu tiên

Doãn Khởi

SGTT.VN – Đầu thế kỷ 19, khi Trịnh Hoài Đức vào trấn Hà Tiên, thấy cảnh kho, chành, vựa được Mạc Cửu đặt dưới chân núi Phù Dung (nay là núi Đề Liêm), đã thốt lên: “chân núi, tiếng chuông mõ pha trộn tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của phố thị, chợ búa, thật là cảnh nửa tăng nửa tục”. Đó là thời điểm hơn 100 năm sau ngày Mạc Cửu về đất Hà Tiên.

Biển Tây, một thời là biển đẹp… Ảnh: TLCK

Tổng trấn nhà buôn

“Chúa Hiển Tông (Nguyễn Phước Chu – NV) thấy ông tướng mạo khôi kiệt, lui tới kính cẩn, khen là người trung thành, sắc cho làm thuộc quốc, đặt tên trấn là trấn Hà Tiên, cho ông làm chức tổng binh, ban cho ấn thụ và sai nội thần tiễn chân tới quốc môn” – Đại Nam liệt truyện tiền biên. Người được tả trên là tổng binh Mạc Cửu, vào mùa thu năm 1708, ông cùng thuộc hạ dong thuyền ra Phú Xuân dâng biểu xưng thần và trao đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn. Kể từ đó, một vùng đất – biển hoang sơ đã trở thành phố thị, thương cảng lớn bậc nhất xứ Đàng Trong, in đậm dấu chân trong hành trình tiến ra Biển Tây của dân tộc Việt.

Một ngôi chùa xưa ở Hà Tiên qua bưu ảnh.  Ảnh: TLCK

Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết: “Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Vào thời Đại Thanh (1680) nhà Minh mất hẳn. Mạc Cửu (lúc này khoảng 23 tuổi – NV) không khuất phục… mới chừa tóc rồi chạy sang phương Nam, trú tại phủ Nam Vang, nước Cao Miên”. Nhiều nguồn sử khác cho biết, lúc 17 tuổi ông đã bôn ba khắp nơi buôn bán, chỉ năm năm sau đã làm chủ một đội thuyền giao thương với nhiều nước vùng Đông Nam Á và đảo Đài Loan.

Trong vòng hai chục năm lưu lạc, Mạc Cửu khi làm quan cho nước Cao Miên, lúc giao dịch ngoại thương cho vua Cao Miên… tựu trung các việc của ông đều không nằm ngoài hoạt động thương mại, kể cả khi ông chạy sang Xiêm La tị nạn. So với hai vị tổng binh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cũng chạy qua Đàng Trong (1679) đầu phục chúa Nguyễn, khai khẩn đất Mỹ Tho và Biên Hoà, Mạc Cửu không xuất thân binh nghiệp. Dưới con mắt một nhà buôn, sau nhiều năm bôn ba các xứ Cao Miên (Nam Vang, Kampot, Oudong) và Xiêm La, đến khoảng năm 1700, ông chọn đất Hà Tiên làm chỗ dừng chân, một nơi có rừng có biển, đồng bằng mênh mông, sản vật dồi dào, bộ – thuỷ tiếp giáp đất Campuchia, Thái Lan ngày nay, có thể mở thương cảng quốc tế.

Khẩn hoang đồng bằng

Xứ Hà Tiên, ngày Mạc Cửu định cư và bắt đầu khai khẩn, rộng lớn hơn bây giờ nhiều: trấn Hà Tiên tây giáp Xiêm La, bắc giáp Cao Miên, tây nam trông ra biển… Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (Hà Tiên) cho biết, trấn Hà Tiên xưa bao gồm tỉnh Kampong Som (hiện thuộc Campuchia) dài xuống Rạch Giá, Long Xuyên, ven biển từ Lũng Kỳ (khu vực giữa Réam và Sré Cham, phía tây bắc đảo Phú Quốc) kéo dài đến Cà Mau. Trấn Hà Tiên được tạm chia thành hai vùng: phía trên từ Rạch Giá, Long Xuyên đến Bạc Liêu… phần nam sông Hậu có đồng bằng lớn, thuận tiện cấy cày; phía biển từ Phú Quốc chạy đến mũi Cà Mau hợp đánh bắt thuỷ hải sản, đặc biệt là giao thương với các nước xung quanh.

Cầu tạm qua sông Tô Châu thời xưa nay đã được thay bằng cầu bêtông kiên cố. Ảnh: TLCK

Trước khi Mạc Cửu định cư ở Hà Tiên, cùng với người Hoa người Việt đã có mặt rải rác ở vùng này, kể cả Cao Miên và Xiêm La. Họ khai khẩn ruộng nương và đánh bắt thuỷ hải sản, sống ngoài vòng ảnh hưởng của biến động chính trị các quốc gia trên. Với họ, “ông lại chiêu mộ lưu dân Việt Nam ở Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Rạch Giá, Cà Mau lập thành bảy xã thôn” (Gia Định thành thông chí). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cho biết thực ra, từ thời còn làm quan bên Cao Miên, Mạc Cửu đã chiêu tập người Việt, nên sau này lưu dân Việt – Hoa theo ông về trấn Hà Tiên rất đông. Kẻ làm ruộng, ông chia vùng cấp đất để khẩn hoang, cung cấp nông cụ thiết yếu (cày, cuốc, dao, rựa… kể cả trâu), phân phối giống (những thứ này Mạc Cửu đi buôn mà có). Ngay cả những tù phạm bị lưu đày nơi khác, ông cũng đưa về cấp đất, nông cụ cho khai hoang, trồng cấy. Thêm nữa, Mạc Cửu còn buộc những lưu dân Việt giỏi canh tác, khẩn hoang dạy nghề nông cho người Miên (người Miên không giỏi làm nông). Phần đầu ra, ông thu mua toàn bộ lúa gạo, hồ tiêu. Với nghề đánh bắt, các sản vật biển (cá, tôm, đồi mồi, yến sào…) được khuyến khích khai thác bằng chế độ thu mua. Với chính sách bao tiêu đầu vào lẫn đầu ra như vậy, người làm ruộng, kẻ đi biển đã dần định cư khắp nơi trong trấn Hà Tiên. Chính những sản vật nông – ngư nghiệp đó góp phần làm hoạt động thương mại – kinh tế biển của họ Mạc sau này phát triển rực rỡ.

Kinh tế thị trường

Vốn có khả năng và điều kiện kinh tài từ trước khi về lập trấn, Mạc Cửu đã biến Hà Tiên thành một trung tâm thương mại, giải trí bậc nhất của đất Đàng Trong. Vốn có một vị trí đắc địa, nhiều đầu mối hoạt động giao thương, trấn thủ Hà Tiên (khu vực thị xã bây giờ) mặt hướng ra Biển Đông, rất gần với Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Cửa biển sâu, rộng gọi là cảng khẩu Hà Tiên. Nối cảng khẩu là một cái hồ lớn (Đông Hồ) và sâu có thể chứa hàng ngàn thuyền bè, là nơi neo đậu lên xuống hàng. Nối với Đông Hồ là sông Giang Thành, con sông đi thẳng qua Campuchia, đến đất Sài Mạt (nơi ngày trước Mạc Cửu làm quan) – một tuyến giao thương quan trọng với Cao Miên ngày ấy. Từ Sài Mạt có đường bộ đi đến thẳng Oudong (kinh đô cũ của Cao Miên). Như vậy, xét về địa lợi, ở Hà Tiên có đủ (cảng biển, sông, sản vật…)

Đôi câu đối trước cổng tam quan Mạc công miếu: “Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng/ Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh” Ảnh: Doãn Khởi

Ngoài việc làm tổng trấn (được quyền thu thuế), họ Mạc còn là một nhà buôn lớn nhất vùng Hà Tiên lúc bấy giờ. Theo nhiều sách sử, ông mua từ Cao Miên ngà voi, sừng tê, đậu khấu (vị thuốc quý), gỗ… đổi lại, ông bán các đồ vật dụng (gốm, sành, sứ), gạo, muối… Đối với các nước giao thương đường biển, hàng bán là cá, tôm khô, gạo, hồ tiêu và những sản vật từ Cao Miên về. Không chỉ bán hàng tại chỗ cho các thương thuyền ngoại quốc (Đông Nam Á và cả châu Âu), họ Mạc thời ấy còn có ba chiếc thuyền lớn được chúa cấp (long bài), đủ sức buôn bán tận Nhật Bản. Chưa hết, Mạc Cửu còn mở thêm sòng bạc kinh doanh. Không sử sách nào chép chi tiết lượng hàng hoá giao thương lúc ấy, chỉ biết vào năm 1718, khi Xiêm La đánh Hà Tiên, phá kho của họ Mạc đốt 200 tấn ngà voi, gạo và các hàng hoá khác, phải mang nhiều tàu lớn vào mới chở đi hết.

Đến thời Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu – từ năm 1736) việc buôn bán còn tấp nập hơn. Cảng Hà Tiên (Đông Hồ) tàu bè đậu kín, ngược xuôi tấp nập. Hai bên bờ, phố thị đông đến nỗi không còn chỗ cho chành vựa. Lúc này họ Mạc được phép đúc tiền riêng (lấy tên là Thái Bình) và trở thành đồng tiền có thể giao dịch quốc tế. Hơn 100 năm sau ngày họ Mạc về khai phá, khi Trịnh Hoài Đức vào trấn Hà Tiên, ông thấy cảnh tượng ở núi Phù Dung (nay là núi Đề Liêm) chợ đầu mối xô bồ, tấp nập kế chùa, cho nên vị đại thần họ Trịnh mới thốt “cảnh nửa tăng nửa tục”. Hay như nhận xét của ông khi nhìn thấy sự sầm uất nơi xưởng đóng thuyền ở chân núi Ngũ Hổ (cách Đông Hồ vài trăm trượng): “Thuyền biển, thuyền sông đi lại như mắc cửi, thật là một nơi đô hội miền biển”. Thời điểm ấy, sau nhiều biến thiên, chiến tranh, ly tán, hoạt động giao thương đã giảm sút rất nhiều so với gần trăm năm trước mà còn như vậy, mới biết vào kỳ cực thịnh, trấn Hà Tiên sầm uất thế nào.

***

Bên trong khu Mạc Công miếu. Ảnh: Doãn Khởi

Về Hà Tiên bây giờ, những dấu tích của cảnh “đô hội miền biển” không còn. Đầm Đông Hồ, sau một dự án lấn biển làm khu đô thị, nay hiền lành như một con kênh đào. Đứng trên cầu Tô Châu nhìn ra, cảng khẩu nay bị bồi lắng nên nhỏ nhoi và nông sè. Phía tay trái cảng khẩu, Nam phố (một trong “Hà Tiên thập vịnh” của Tao Đàn Chiêu Anh) đang được thay bằng một dự án lấn biển khác, chẳng còn: “Vực thẳm cá rồng còn ẩn náu/Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi” (Nam phố trừng ba). Lư Khê (rạch Vược) chẳng thấy cá vược rau thuần vì bị Pháp lấp từ giữa thế kỷ trước. Núi Phù Dung xưa, nay chẳng còn nghe “tiếng kệ kinh lẫn ồn ào chợ phố thị”…

Như lời của nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”. Nhiều lần dẹp yên giặc cướp, mấy bận phò chúa lâm nguy, đánh đuổi ngoại bang giữ gìn bờ cõi… võ công họ Mạc khai khẩn đất phương Nam có ai bằng. Có lúc phải chọn cái chết ở xứ người để tận trung báo quốc, họ Mạc xứng với đôi câu đối trước cổng tam quan Mạc công miếu, chân núi Bình San (người đời thường gọi là lăng Mạc công), tương truyền của Trịnh Hoài Đức:

Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng
Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh.

Năm 1975, lần đầu tiên khi đặt chân đến Hà Tiên, đứng trên đỉnh pháo đài nhìn ra biển, nhà thơ Chế Lan Viên rất đỗi ngạc nhiên và cho rằng vùng biển vịnh Thái Lan đẹp không thua gì Hạ Long. Rất ít người biết được rằng, trong hải phận của tỉnh Kiên Giang có đến 105 hòn đảo.

Không chỉ đẹp, đây còn là vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất nước. Là vùng thềm lục địa nước nông, độ sâu trung bình chỉ 46m, nên biển yên, ít bị ảnh hưởng bởi sóng triều và bão tố khu vực Biển Đông. Về khí hậu, vịnh Thái Lan là vùng biển ấm, nhiệt độ tầng đáy so với Biển Đông vào mùa gió đông bắc thường cao hơn 5 – 8 độ. Đây chính là cái nôi lý tưởng cho tôm cá từ Biển Đông và Thái Bình Dương vào sinh đẻ và trưởng thành. Góp vào sự giàu có trữ lượng hải sản của vùng biển này còn phải kể đến hệ rừng ngập mặn rộng hơn trăm ngàn hecta kéo dài từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên. Người ta đã tổng kết có đến 67% các loài thuỷ sản có giá trị thương mại đánh bắt được trên thế giới phụ thuộc vào rừng ngập mặn cửa sông và ven bờ.

Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên

Hoàng Kim

Theo Wikipedia tiếng Việt,  Mạc Cửu (鄚玖, hay Mạc Kính Cửu (鄚敬玖  1655 – 1735), là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ 18 ở Việt Nam.

Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành [3] Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt [4]của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -réam), Cần Bột (Cần Vọt – Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm – Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn.[5]Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông) [6].

Sách Hỏi đáp lịch sử tập 3, viết tương tự: Khi nhà Minh bị diệt, gần như cùng lúc với Trần Thượng Xuyên ở Cù lao Phố, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Mạc Cửu – một thương gia trẻ – cũng bỏ nước ra đi. Đến vùng Chân Lạp, ông bỏ tiền ra mua chức Ốc Nha và làm quan tại đây. Tuy nhiên do tình hình Chân Lạp hết sức rối ren, ông bỏ Nam Vang về phủ Sài Mạt...[7]

Theo sách Nghiên cứu Hà Tiên, tác giả Trương Minh Đạt cho rằng từ năm 1680 đến khoảng năm 1700, nhất định Mạc Cửu không ở Nam Vang hoặc Hà Tiên xuyên suốt mà chỉ đi lại. Điều này căn cứ vào lời tựa của Hà Tiên thập vịnh, do Mạc Thiên Tứ viết năm 1737: Trấn Hà Tiên ở An Nam xưa thuộc vể đất hoang vu xa xôi. Từ khi đất Tiên quân (chỉ Mạc Cửu) khai sáng đến nay hơn ba mươi năm, người dân mới được an cư, biết đo lường trồng trọt, để suy ra rằng Mạc Cửu không thể ở và mở mang xứ Hà Tiên sớm hơn năm 1700. Việc Mạc Cửu “cũng không ở Nam Vang xuyên suốt”, ông Đạt giải thích: Bởi năm 1687, Phó tướng Hoàng Tiến nổi loạn giết chết chủ tướng Dương Ngạn Địch, rổi chiếm lĩnh dòng sông Tiền, phong tỏa đường đi Nam Vang và cướp bóc người Cao Miên, khiến họ căm ghét. Thêm nữa, năm 1688, tại Nam Vang xảy ra một sự kiện: “Với sự giúp đỡ của Việt Nam và một đơn vị lính đánh thuê người Hoa, Ang Non (Nặc Nộn) đã có một cố gắng nữa để chiếm ngôi vua. Mặc dù chiếm được Nam Vang, Ang Non không thể giành được thắng lợi quyết định”[14] Do đó, ông Đạt cho biết, người Miên ở trong thành nổi giận, họ truy lùng người Hoa để tàn sát. Biến cố này quá ác liệt đến nỗi Mạc Cửu phải tìm đường thoát thân. Vì sông Cửu Long bị phong tỏa nên Mạc Cửu phải trốn chạy qua Xiêm. Ông được vua Xiêm cho ra bãi Vạn Tuế Sơn ở khoảng mười năm, đến năm 1699, Mạc Cửu mới về Lũng Kỳ, mở ra 7 xã thôn. Và theo ông (Trương Minh Đạt)  thì sách Hà Tiên Mạc thị sử của thi sĩ Đông Hồ đã nhầm lẫn khi cho rằng quân Xiêm tấn công Mang Khảm (Hà Tiên) vào năm 1674, bắt ông Cửu và gia quyến sang Xiêm, bởi khi đó Mạc Cửu còn ở Nam Vang, và năm 1674, ở Hà Tiên không xảy ra biến cố quan trọng. Mãi đến năm 1718, theo Gia Định thành thông chí (mục Lũng Kỳ Giang), thì mới xảy ra biến loạn. Sách này chép: Tháng 2 năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5.000 thủy binh hợp đồng với quân Thâm cướp đường kéo xuống Hà Tiên cướp phá. Mạc Thống binh không địch nổi phải tạm xuống Lũng Kỳ…Người vợ của Mạc Cửu là Bùi Thị Lẫm (người xã Đồng Môn (Đồng Mun, trấn Biên Hòa) đương có thai, đêm mồng 7 tháng 3 sinh ra Mạc Tông (Mạc Thiên Tứ)…[15] Mạc Cửu không bị Xiêm bắt, điều đó cũng đã được Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh xác nhận: Tướng nước Tiêm (Xiêm La) thấy ông Thái Công (Mạc Cửu) người có vẻ hùng nghị, nên rất yêu mến, rồi dụ khéo ông đem về nước, ông bất đắc dĩ phải theo về Tiêm La. Vua thấy dung mạo ông, rất vui mừng và giữ ông ở đấy. Sau ông phải nói khéo với những bầy tôi thân cận của vua nước Tiêm, xin cho ông ra ở nơi bãi bể núi Vạn Tuế, thuộc địa của nước Tiêm. Chợt gặp lúc nước Tiêm có nội biến, ông mới ngầm đem những người dân theo ông cùng về đất Long Cả (Lũng Kỳ) [16]  Vậy, nhân biến cố vừa kể trên, Mạc Cửu bị dụ chạy lánh nạn qua Xiêm, chứ không phải bị quân Xiêm đến cướp phá Hà Tiên rồi bắt đi.

Lập trấn Hà Tiên
Theo sách Hỏi đáp lịch sử tập 3 Mạc Cửu vốn có óc tổ chức, đã chiêu tập dân xiêu tán người Hoa, Việt mở phố xá, xây thành lũy, đẩy mạnh khai hoang lập ra bảy thôn trải dài ven biển từ Kompongsom (Chân Lạp) về tận Cà Mau. Với chủ trương để cho dân khai hoang tự do, không thu tô thuế, chỉ đứng ra tổ chức mua sản phẩm để bán lại cho khách buôn. Chính điều này đã quy tụ dân cư đến Mang Khảm ngày càng đông. Ghe thuyền các nơi, kể cả nước ngoài đến mua bán tấp nập. Sự thịnh vượng khiến cho đất này gặp tai họa. Trong khoảng thời 1687-1688, quân Xiêm vào cướp phá Mương Khảm, bắt Mạc Cửu đưa về Xiêm ở Vạn Tuế Sơn (tác giả sách Nghiên cứu Hà Tiên có ý kiến khác, xem bên dưới). Sau đó, ông trốn về Lũng Kỳ (Lũng Cả), dân xiêu tán tụ về với ông ngày một đông, nhưng do địa thế chật hẹp, khoảng năm 1700, ông trở về Phương Thành (Hà Tiên).[8]

Theo website Vietgle : Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác. Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm, Long Kỳ, Cần Bột, Hương Úc, Sài Mạt, Lình Quỳnh và Phú Quốc (đảo Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Cảng Khẩu (còn gọi là Mán Khảm, Kan Kao, Căn Khẩu, Căn Kháo, Căn Cáo) [9].Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).[10]

Về theo nhà Nguyễn

Lúc này ở Gia Định, các chúa Nguyễn đã lập xong phủ Gia Định. Người Việt và các di thần người Hoa đang định cư yên ổn. Nhận thấy muốn tồn tại phải có thế lực đủ mạnh để bảo vệ, che chở cho lãnh địa mà ông đã tốn công gây dựng. Sau khi cân nhắc, năm 1708[11]   Mạc Cửu cùng thuộc hạ là Lý Xá, Trương Cầu đem lễ vật đến xin thần phục.
Sách Gia Định thành thông chí chép: Mạc Cửu sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đô Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy. Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu, chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc. Tháng 4 mùa hạ năm thứ 21, Tân Mão (1711), Tổng binh trấn Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn. Tháng 5 mùa hạ năm thứ 11, Ất Mão (1735) đời chúa Nguyễn Phúc Chú Tổng binh Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu mất, thọ 78 tuổi, con trưởng dòng chánh là Mạc Tông tự là Thiên Tứ (hiệu Sĩ Lân Thị, Thụ Đức Hiên) dâng cáo tang.[12].

Dòng họ trung liệt

Mạc Cửu được truy phong Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị Công.[13] Mạc Cửu có người vợ tên Bùi Thị Lẫm, người huyện Đồng Môn (Biên Hòa) và sinh được con trai đầu lòng tên Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ )  còn gọi là Mạc Sĩ Lân. Căn cứ bia mộ của bà ở khu mộ dòng họ Mạc ở núi Bình San (Hà Tiên), do chính Mạc Thiên Tứ lập, thì bà được chúa Nguyễn cho phép mang họ Nguyễn.

Mộ Mạc Cửu trên núi Bình San.

Gia tộc họ Mạc sau biến loạn thời thế khi triều Tây Sơn nổi lên truy sát nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ phải trốn chạy lưu vong sang Xiêm La (Thái Lan ngày nay). Ông lại bị Trình Quốc Anh (vốn là người Hoa gốc Triều Châu  làm vua Xiêm La căm tức trước đây Mạc Cữu không thần phục Thái Lan mà theo phò nhà Nguyễn) bắt giết hết tất cả các con lớn là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày.[3]. Quá phẫn uất, Mạc Thiên Tích đã tự tử [4] tại Băng Cốc. Về sau Mạc Tử Sanh mãn hạn tù đã  trở về Gia Định phò giúp Nguyễn Ánh, được phong chức Tham tướng trấn thủ vùng Trấn Giang, có tiếng là tướng giỏi dù chỉ mới 19 tuổi, nhưng mất sớm.

Họ Mạc là một gia tộc trung liệt có công lớn với người Việt, đất Việt ở phương Nam.
Mạc Công miếu, khi xưa thờ Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Sanh. Hiện nay là Đền thờ họ Mạc nơi chân núi Bình San.

Thi sĩ Đông Hồ có thơ nói về công trạng của hai cha con Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích:
(trích)
Chẳng đội trời Thanh Mãn
Lần qua đất Việt bang
Triều đình riêng một góc
Trung hiếu vẹn đôi đường
Trúc thành xây vũ lược
Anh Các cao văn chương …[17]

Nước Việt ghi công
Vào sáng ngày 7 tháng 9 năm 2008, tại thị xã Hà Tiên đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu và kỷ niệm 300 năm ngày thành lập trấn Hà Tiên (1708-2008).

Chú thích
1.    Việt Nam sử lược/Quyển II/Tự chủ thời đại/Chương VI
2.    Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả
3.    Xem giải thích Mương Khảm và Phương Thành ở trang Hà Tiên, Kiên Giang
4.    Sài Mạt: Phủ và núi Sài Mạt được người Hà Tiên quen gọi là Sóc Mẹt. Người Pháp trước đây ghi là Tuk Meas (Bantey Meas). Trên bản đồ Hành chánh Việt, Lào, Campuchia xuất bản năm 1995, ghi là Tuc-Mia. Thủ phủ xưa, nằm trên dòng Prek Ten, cạnh đó là núi Sóc Mẹt, nay thuộc tỉnh Kampot, Campuchia. Thời xưa, đây là điểm buôn bán trên đường giao thương giữa Oudong và Hà Tiên.
5.    Gia Định thành thông chí, (quyển 3, tập Trung, tờ 63b) Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa Sài Gòn xuất bản, 1972, hay xem tại đây:[1]. Nói thêm: Sài Mạt, Cần Bột, Lũng Kỳ, Hương Úc, nay đều thuộc Vương quốc Campuchia.
6.    Trương Minh Đạt giải thích khác: Tà Ten là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc thị xã Hà Tiên, nằm bên bờ trái sông Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Ten (sau là Prêk Ten). Tà có nghĩa là sông, Ten là tên sông. Về sau chữ Tà được đổi là Hà và Ten được biến thành Tiên. Cách giải thích cũ “nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên” là không có căn cứ và thiếu khoa học. (Nghiên cứu Hà Tiên, tr. 23-30).
7.    Nhiều người soạn, Trần Nam Tiến chủ biên, Nxb Trẻ, tr. 196.
8.    Hỏi đáp lịch sử tập 3, sách đã dẫn, tr. 197.
9.    Vương Hồng Sển giải thích: Cảng Khẩu là tên đầu của đất Hà Tiên. Kan Kao là Can Khẩu, và chữ này do tiếng Khmer là Pèam (vàm, cửa biển) mà có (Tự vị tiếng nói Miền Nam, Nxb Trẻ, 1999, tr. 82)
10.    [2]
11.    Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ghi “năm 1708, Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn”. (Nxb Tân Việt, 1968, tr. 331), sách Nghiên cứu Hà Tiên (tr. 73) và sách Hỏi đáp lịch sử tập 3 (tr. 198), đều ghi 1708. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế và Vương Hồng Sển đều ghi năm Giáp Ngọ (1914 – Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 1992, tr. 427 và Tự vị tiếng nói Miền Nam, Nxb Trẻ, 1999, tr. 421.). Sáng ngày 7 tháng 9 năm 2008 tại thị xã Hà Tiên đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu và kỷ niệm 300 năm ngày thành lập trấn Hà Tiên (1708-2008), có nghĩa, năm 1708, đất Hà Tiên thuộc Đại Việt là có cơ sở hơn.
12.    Xem Gia Định thành thông chí [3]
13.    Sổ tay hành hương đất Phương Nam, sách do nhiều người soạn, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb Tp. HCM, 2002, tr. 363.
14.    D.G.E. HALL, Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 645.
15.    Xem Gia Định thành thông chí: [4].
16.    Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, tờ 1a (Văn hóa Nguyệt san số 61, Sài Gòn, tr. 554-555).
17.    Chép theo Núi mộng gương hồ tập 3 của Mộng Tuyết. Nxb Trẻ, 1998, tr. 158.
18.    Xem http://www.nld.com.vn

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Bình luận về bài viết này