Nói với em: đối thoại và suy ngẫm

alt

NGỌC PHƯƠNG NAM. Sau khi đọc bài thiền sư Thích Thanh Từ , một bạn đọc đã trích dẫn nhận định của tôi:“Thiền sư Thích Thanh Từ là vị chân tu đạo hạnh và thực tiễn. Chân tu đi không lệch hướng và trực chỉ nhân tâm, bạo gan dám nói, dám làm, dám chỉnh đốn những gì tự thấy sai lạc chánh pháp, quên mất cội nguồn Phật giáo Việt Nam; Đạo hạnh nhiệt huyết thường xuyên với khát vọng và ước mơ tràn đầy, thấu hiểu và giác ngộ; Thực tiễn và cụ thể, biến những gì ôm ấp trong lòng thành hiện thực nên bảng hiệu những ngôi Thiền viện hiện đứng sừng sững trước mắt và trong lòng  người” , và hỏi “Nếu có thể cho tôi biết thiền sư hiện đang ở chùa nào và chùa ở đâu? Xin cám ơn.” Tôi đã trả lời: Thiền sư Thích Thanh Từ hiện về trụ trì tại chùa Lân một thắng tích trong non thiêng Yên Tử nơi Vua Phật Trần Nhân Tông hôi tụ tinh hoa Phật giáo Việt Nam “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa đi Yên Tử chưa thành quả tu“.” Lênh đênh qua cửa Thần Phù Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” ” Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền?” .Ít ngày sau, tôi đã nhận được một lời cảm nhận khác của cùng tác giả: “Cuộc đời thăm thẳm ngàn sâu. Thiện ác đáo đầu kẻ xuống người lên”. Tôi đã đưa lên bài Ngô Bảo Châu đối thoại và suy ngẫm với nhiều câu đối thoại Phật giáo và Khoa học, đạo và đời giữa Thượng Tọa Thích Nhật Từ và giáo sư Ngô Bảo Châu .Sáng nay, tôi nhận được bài viết Nói với em (dưới đây) của một tác giả chưa quen biết , đồng thời cũng chưa rõ liệu có liên hệ gì với các tác giả trước hay không. Tôi  xi cám ơn và trao đổi qua bài  “Minh triết sống thung dung phúc hậu” 

NÓI VỚI EM

Thích Thái Hòa

Em đã gặp tôi nhiều lần tại Thất Lắng Nghe, Chùa Từ Hiếu, và em cũng đã nhiều lần gọi điện thoại đến tôi để nói về những nỗi băn khoăn của em đối với cuộc sống và em đã từng hỏi tôi rằng sống là gì? Nghe em hỏi, Tôi chỉ im lặng, mỉm cười, thở và bước đi, sau đó tôi lại bước về chỗ ngồi và cùng nói chuyện với em, tôi lại hỏi em rằng, theo em sống là gì ?
Em buột miệng trả lời ngay với tôi rằng: “Sống là lo âu, là sợ hãi, là giành giựt, là đấu tranh, là dối trá, là mạnh được yếu thua, là lập phe, lập nhóm để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho nhau… sống như vậy, em chán ngấy rồi, em không muốn sống nữa, em muốn chết thôi, chết để cho nó khỏe, để khỏi thấy nhiều điều trái tai, gai mắt từ gia đình đến xã hội thầy ạ!”
Nghe em nói, tôi biết trong em có quá nhiều hạt giống bất mãn và khổ đau, và nhìn nét mặt của em, tôi biết em có quá nhiều đêm trằn trọc không ngủ và nhìn em cười, tôi biết trong em ấp ủ quá nhiều nỗi thương đau. Em nói, em không biết em là gì trong tương lai, và ngay cả gia đình cũng như xã hội, em cũng không biết tương lai của chúng sẽ là gì?
Tôi biết trong cuộc sống, em đã có quá nhiều khó khăn và khổ đau. Nhưng thôi, em đừng thắc mắc và nghĩ ngợi nữa, em hãy tập ngồi yên năm, ba phút để thở có ý thức đi, rồi tôi sẽ nói chuyện cho em nghe!
Em ơi, những khó khăn và khổ đau mà em vừa nói, thì ở trong đời này ai mà không có, và ai mà không có một vài lần đã chạm trán như vậy!
Tuy nhiên, cuộc sống không phải chỉ toàn là những khó khăn và không phải chỉ toàn là những thất vọng và khổ đau như em nói, mà còn có mặt của những thuận lợi và của những hạnh phúc và an lạc nữa chứ!
Em cứ suy nghĩ đi, em đã có đôi mắt để tiếp xúc thường trực với ánh sáng, để thấy được những gì mà em cần muốn thấy, thấy được hình ảnh của các bậc thánh thiện, thấy được bàn thờ của tổ tiên, thấy được mặt cha và mẹ, thấy được mặt của anh chị em, bạn bè, người yêu, đồng loại và mọi loài, thấy được con đường để tự đi, thấy được núi cao, biển rộng và sông dài, thấy được chữ nghĩa để đọc những gì em cần muốn đọc, em có thể nhìn thấy trời xanh mây trắng, và nhìn xa hơn, em có thể thấy được trăng sao lấp lánh từ những cõi không gian vô cùng. Như vậy, những điều kiện thuận lợi để cảm nhận hạnh phúc, vốn đã có sẵn trong em một cách phong phú và kỳ diệu, sao em lại còn trách móc và khổ đau!
Em cứ suy nghĩ đi, em đã có đôi lỗ tai một cách toàn hảo, để em có thể lắng nghe và hiểu những gì mà những người thương yêu của em nói cho em nghe, em có thể nghe được tiếng thác đổ, tiếng suối reo, tiếng sóng vỗ từ biển khơi, tiếng gió thổi, tiếng rơi của mưa và lá, tiếng chim hót, tiếng của giun dế trong đêm khuya, tiếng nói từ những bậc đức hạnh và ngay cả tiếng vỗ một bàn tay của người chứng ngộ. Như vậy, sự có mặt của hai lỗ tai trong đời sống của em là những điều kiện thuận lợi để giúp em có hạnh phúc, vậy tại sao em lại sầu muộn và khổ đau!
Cũng như vậy, em cứ suy nghĩ đi, có phải mũi và miệng là những điều kiện giúp em có hạnh phúc không? Mũi đã giúp em thở, nếu em không thở làm sao em có thể sống, mũi giúp em thưởng thức được các hương thơm, nếu em không có mũi, làm sao em có thể ngửi được hương thơm của muôn vạn loài hoa và dược thảo, hương thơm của hương và trầm và nhất là hương thơm trong đời sống của những người đức hạnh! Miệng lưỡi đã giúp em nói, để tạo ra được những cảm thông giữa mình và người, giúp em hát và ca, giúp em biểu lộ được tiếng gọi quý báu và thân thương nhất là cha ơi, mẹ ơi, anh chị ơi, em ơi, thầy ơi, và ngay cả tiếng gọi cao quý nhất là Phật ơi nữa; Miệng lưỡi giúp em ăn, uống và nếm các mùi vị mỗi ngày, và như vậy, miệng lưỡi cũng như lỗ tai đã giúp em nhiều lắm, em có biết không?
Lại nữa, tôi muốn nói với em rằng, thân thể của em từ đầu mình cho đến tay chân, từ mái tóc cho đến làn da, từ não trạng cho đến các bộ phận trong cơ thể, từ những hạt mồ hôi cho đến những tế bào nhỏ nhặt, không có cái gì là không giúp cho em sống có hạnh phúc, và ngay cả những cái đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi đều là những động tác giúp em có hạnh phúc cả. Nên, em đi được, em đứng vững được, em ngồi vững chãi được, em nằm thảnh thơi được, em co và duỗi được, em thở được, em uống nước và ăn cơm được, em nói, cười và khóc được, cho đến em đi tiểu được, đi đại được, tất cả những cái được ấy, đều là những cái được của hạnh phúc đó em ạ! Những cái được ấy, hiện tại em đang được và được quá nhiều như vậy, nhưng tại sao em lại sống không có hạnh phúc?
Và em ơi, quan trọng hơn nữa, là trong thân thể của em lại có tâm hồn, nếu trong thân thể của em, mà không có tâm hồn, thì em trở thành gỗ đá và mọi sự có mặt của mắt tai mũi lưỡi và thân thể đều trở thành vô nghĩa, vì nó chẳng giúp được gì cho em bao nhiêu, đối với sự cảm nhận cuộc sống.
Nhưng em ơi, tâm hồn của em càng sâu lắng, thì hạnh phúc của em càng cao; tâm hồn của em càng rộng, thì hạnh phúc của em càng lớn; tâm hồn của em càng trong sáng, thì hạnh phúc của em càng xuyên suốt, tâm hồn của em càng bất động, thì hạnh phúc của em càng vững chãi, tâm hồn của em càng đơn giản, thì đời sống của em càng thảnh thơi và không hệ luỵ, và tâm hồn của em càng đi tới với sự toàn giác, thì hạnh phúc của em càng linh hoạt và sống động. Em hãy sử dụng sáu quan năng nhận thức của em với tâm hồn có những trạng thái như thế, và lẽ đương nhiên khi ấy, sáu quan năng nhận thức của em đều là những điều kiện của phép lạ, có khả năng biểu hiện để tạo ra và tiếp nhận muôn ngàn hạnh phúc cho em.
Như vậy, sống không phải như những gì em vừa trình bày và lên án, mà em hãy trở về lại với chính em đi, để em có thể cảm nhận được những gì mà tôi vừa nói với em, để em có thể tiếp nhận được gia tài quý báu của em vốn đã có từ nhiều đời, và từ những thiện căn phước đức nhân duyên, mà cha mẹ, cũng như dòng họ tổ tiên nội ngoại của em, cùng với đất trời đã chung nhau, làm nên hình hài, để hiến tặng cho em và đã cùng em hiện hữu!
Và hôm nay, em đang hiện hữu trong sự sống chết giữa cõi người ta, nên đứng trước sự sống và chết ấy, em
không thể không khắc khoải và suy tư, vì sao? Vì đó là bi kịch, mà con người hết sức sợ hãi.
Nhưng em ơi, em có biết không? Đỉnh cao của sự sống là sự chết và tột cùng của sự chết là sự sống, sống và chết là hai mặt của một sự hiện hữu, chúng chưa bao giờ biệt ly nhau, dù chỉ là một khoảnh khắc em ạ!
Sống là thở, nếu không thở làm sao có sự sống; sống là cười, nếu không có cười, thì làm sao sự sống có thể đâm chồi, nẩy lộc và nở hoa; sống là bước đi, là hành động, là liên tục chuyển dịch, nếu không có bước đi, không có hành động và không có sự chuyển dịch, thì không có sự sống, và sống là thỉnh thoảng em phải ngồi yên lặng, với sự có mặt của ý thức trong sáng, để thở chậm và sâu, nhằm theo dõi các cảm giác, các tri giác, các ấn tượng và tưởng tượng, đang vận hành trong tâm thức, nhằm thanh lọc thân tâm và nhìn rõ lại chính mình em ạ!
Nhưng em ơi! Con người chuyển dịch liên hệ đến vô minh, thì họ sẽ sống trong vô minh. Sống trong vô minh là sống trong sự lo lắng, hận thù, đấu tranh và giành giựt nhau; sống trong vô minh là sống trong sự lập phe, lập nhóm để tranh giành đặc quyền, đặc lợi của nhau, những ai sống như vậy là họ đã sống trong sự lo lắng, khổ đau và chết ở trong sự bất mãn và sầu muộn.
Và nếu sự chuyển dịch của con người liên hệ đến Minh, thì con người sẽ đi và sống trong ánh sáng. Sống trong ánh sáng, thì con người không còn có sự lo lắng và nghi ngờ, con người không còn có sự giành giựt nhau, mà con người biết tìm cách bảo vệ hạnh phúc cho nhau và đưa nhau đi lên đời sống cao thượng, nên con người sống trong sự thảnh thơi và chết ở trong sự an toàn.
Em ơi, phép toán đầu tiên em học để tính, đó là phép toán cộng trừ, nhân chia em ạ! Em có biết không, không có cái cộng nào mà không đi theo với cái trừ và không có cái nhân nào mà không đi theo với cái chia, nghĩa là cộng bao nhiêu thì phải trừ bấy nhiêu, nhân bao nhiêu thì phải chia bấy nhiêu và lại nữa, trong bài toán trừ, nếu mượn mà không trả, đó là bài toán sai hỡi em!
Em hãy nhìn sâu vào bốn phép toán cộng trừ, nhân chia ấy, bằng đôi mắt thiền quán, em sẽ khám phá ra chân nghĩa của sự sống và em sẽ biết ý nghĩa đích thực của sự sống là gì. Em ơi, sống là cộng và trừ, là nhân và chia đó em! Nghĩa là ta cộng bao nhiêu là ta phải trừ bấy nhiêu; ta nhân bao nhiêu là ta phải chia bấy nhiêu. Ta cộng thêm một ngày của sự sống, thì ta cũng trừ bớt đi một ngày của sự sống; ta nhân thêm bao nhiêu ngày của sự sống, thì ta cũng phải chia lại cho bấy nhiêu ngày của sự sống em ạ!
Em ơi, trong lứa tuổi của em, có khi nào em ngồi yên lặng để ngắm trăng chưa, nếu có, thì em đã thấy gì từ mặt trăng và em đã nghe mặt trăng nói gì với em trong mỗi đêm không? Nếu em không nghe, thì ta thay thế mặt trăng để nói cho em nghe nhé!
Trăng mỗi nửa tháng đầu, đều làm theo phép toán cộng, nghĩa là giữa không gian vô cùng, từ mồng một, trăng xuất hiện mơ hồ mà mắt thường ít ai thấy được, rồi mỗi ngày đi qua, đêm về trăng càng lúc, càng hiện rõ, nghĩa là mỗi ngày đêm đi qua là mỗi ngày, mỗi đêm cộng vào đời sống của trăng, khiến trăng càng lúc càng sáng, cái tròn sáng của trăng một cách trọn vẹn xuất hiện giữa đêm rằm, và qua đêm mười sáu, bài toán cộng tròn và sáng của trăng đã tự chuyển đổi thành bài toán trừ, và mỗi ngày đêm đi qua, cái tròn và sáng của trăng tự giảm trừ dần, cho đến đêm ba mươi là dấu hiệu cũng như ánh sáng của trăng hoàn toàn tự triệt tiêu, và giữa không gian vô cùng của đêm ấy, ta chẳng tìm đâu ra dấu tích của trăng.
Như vậy, trăng đã cộng bao nhiêu ngày đêm để soi sáng cho đời, thì trăng cũng phải trừ bấy nhiêu ngày đêm, để trở về với nguyên thể của nó! Và em ơi, nếu trăng chỉ đi theo phép cộng mà không có phép trừ hay không trừ đúng với những gì chúng đã cộng, nghĩa là trăng mọc mà không lặn, trăng tròn mà không khuyết, thì mặt trăng đó là mặt trăng vẽ trên giấy hay đó là một mặt trăng bệnh hoạn giữa không gian và nó chẳng có tác dụng gì trong cuộc sống, hoặc nếu nó có tác dụng, thì nó sẽ gây ra tai họa cho trần gian em ạ!
Và tôi muốn nói tiếp với em rằng, trong đời sống hằng ngày, em thở vào là cộng, em thở ra là trừ. Bài toán cộng, trừ này chỉ đưa tới hạnh phúc và an lạc cho em, khi em biết thở vào bao nhiêu là em phải biết thở ra bấy nhiêu. Em biết không, khi em thiền tập, em thở vào dài là em biết em thở vào dài, khi em thở ra dài là em biết em thở ra dài; khi em thở vào ngắn là em biết em thở vào ngắn, khi thở ra ngắn là em biết em thở ra ngắn; như vậy khi em thở vào dài, thì em phải thở ra dài, khi em thở vào ngắn, thì em phải thở ra ngắn, nếu em thở vào dài, mà em thở ra ngắn, thì em sẽ bị ứ hơi, và khi em thở vào ngắn mà thở ra dài, thì em sẽ bị hụt hơi. Mỗi khi em thở bị hụt hơi hay bị ứ hơi, đều dẫn em đến tình trạng khổ thọ và em sẽ không bao giờ có cảm giác hạnh phúc trong khi em thở. Em chỉ có cảm giác dễ chịu và hạnh phúc, khi nào em biết, em thở vào bao nhiêu, là em phải biết thở ra bấy nhiêu. Nếu em thở vào dài và thở ra dài; thở vào ngắn và thở ra ngắn là khiến cho hơi thở của em không bị ứ hay không bị hụt, bấy giờ em có sự hòa điệu giữa thân thể và hơi thở, cũng như sự hòa điệu giữa thân thể với tâm hồn, chính sự hòa điệu ấy, chúng tạo nên những cảm giác dễ chịu và hạnh phúc trong đời sống của em. Nếu em nắm vững được quy luật này, nghĩa là em nắm vững quy luật cộng và trừ, thì khi em đạt được bất cứ một cái gì trong cuộc sống, em sẽ không bị đánh mất bởi cái đạt được ấy; và khi em bị mất bởi bất cứ một cái gì trong cuộc sống, thì em sẽ không bị cái mất ấy, làm cho em bị khuynh đảo, thất vọng và khổ đau.
Bởi vậy, nếu em chỉ nắm vững nguyên tắc của một bài toán cộng trừ, thì em có thể giải mã được nhiều bài toán bí ẩn khác của cuộc sống!
Em biết không, khi em sinh ra, em không nắm bất cứ một cái gì trong tay em để đến, và khi kết thúc cuộc sống, em cũng chẳng nắm được bất cứ cái gì nơi tay em để đi!
Như vậy, ở trong cuộc sống con người, em không những chỉ biết xây dựng đời sống của em bằng bài toán cộng, mà em còn phải biết xây dựng cho đời sống của em bằng bài toán trừ nữa chứ; em không những chỉ biết xây dựng cho đời sống của em bằng bài toán nhân, mà em còn phải biết xây dựng cho đời sống của em bằng bài toán chia nữa chứ!
Em biết không, Ngày xưa ở Ấn Độ có một trường phái triết học tên là Samkhyasastra (Số Luận), trường phái này họ nhận thức và đo lường thực tại bằng những con số, và qua những con số mà họ khám phá thực tại, thì nay em cũng vậy, em có thể sử dụng bốn phép toán học cộng trừ, nhân chia, để em khám phá đâu là chân nghĩa của sự sống, nhằm em có thể sử dụng sự sống mà không bị rơi vào bất cứ một sự sai lầm nào cả!
Và tôi muốn nói tiếp với em rằng, cuộc sống của em không phải chỉ có mặt bắt đầu từ khi cha mẹ của em sinh ra và không phải là kết thúc khi em buông bỏ hình hài này, mà cuộc sống của em là một dòng chảy tâm linh liên tục từ vô thỉ đến vô chung, nên không có cuộc sống nào gọi là cuộc sống bế tắc cả em ạ!
Em biết không, cha mẹ của em chỉ là những điều kiện giúp em biểu hiện sự sống mà không thể thay em để sống, sự sống phải chính là em. Và mỗi khi em hết những điều kiện để biểu hiện sự sống, cũng không có nghĩa là bế tắc và cũng không có nghĩa là em đã chết. Tôi muốn nói với em là em không bao giờ chết, vì không bao giờ có cái gọi là chết thiệt. Chết là em tiếp tục sống và tiếp tục biểu hiện trong dòng chảy liên tục của nhân duyên nội hàm, dưới hình thức này hoặc dưới hình thức khác, hoặc ở trong một không gian này hay ở trong một gian khác, mà mắt em quá phàm tục, trí em quá phàm trần, nên em không thấy và không biết đó thôi!
Cũng vậy, này em ơi, mặt trăng đang ẩn khuất ở bắc bán cầu, thì nó đang tỏa sáng ở nam bán cầu, chứ mặt trăng đâu có thực sự là lặn hay chết! Và mặt trời cũng vậy, mặt trời chưa bao giờ bế tắc, mặt trời ẩn khuất ở phương đông thì lại tiếp tục biểu hiện ở phương tây em ạ!
Như vậy, mặt trăng và mặt trời không bao giờ bế tắc, có nghĩa là chúng không bao giờ chết, thì tại sao em lại có chuyện bế tắc và có chuyện chết? Tôi muốn nói với em rằng, em không bao giờ bị bế tắc và em không bao giờ bị chết thiệt, vì em là một phần thân thể của mặt trăng và mặt trời, mà mặt trăng, mặt trời không bao giờ chết, thì cái chết chẳng bao giờ có thực với em. Sự sống và chết của em cũng giống như sự biểu hiện và ẩn tàng của mặt trăng và mặt trời giữa không gian vô cùng, điều đó em có nhận ra, để em vui cười với sự sống và sự chết của chính em trong từng khoảnh khắc không?
Ở đây, tôi cũng muốn nói thêm với em rằng, thân thể của em chỉ là những sự biểu hiện từ nơi dòng tâm thức vô tận của em; thân thể của em hết điều kiện biểu hiện, thì chúng lại ẩn tàng, nghĩa là chúng trở về lại với dòng tâm thức của em, và khi có điều kiện, thì chúng lại tiếp tục biểu hiện, khi hết điều kiện để biểu hiện, thì nó lại ẩn tàng, cứ như vậy, mà thân thể em hết biểu hiện lại ẩn tàng và hết ẩn tàng lại biểu hiện. Thân thể của em ẩn tàng là ẩn tàng trong tâm thức, và biểu hiện là biểu hiện từ tâm thức, nhưng em ơi, tâm thức là không bao giờ chết, nó là một dòng chảy tương tác liên tục bởi những nhân duyên của chính nó.
Bởi vậy, em hãy nhìn lại tâm em, để em có thể thấy rõ thân thể của em từng giây phút trong hiện tại là gì, và em cũng có thể thấy được thân thể của em trong tương lai là gì. Và em hãy nhìn lại tâm em, để em có thể trả lời được những câu hỏi, tại sao em lại thương người này, mà em lại không thương người kia; tại sao đối với người này thì em lại hành sử như thế này, mà đối với kia thì em lại hành sử như thế kia; tại sao em lại có mặt trong gia đình này, mà không có mặt trong gia đình kia; và tại sao em lại sinh ra trong thế giới này, mà em lại không sinh ra ở thế giới kia… tất cả những câu hỏi ấy, em có thể trả lời một cách minh bạch cho chính em, khi em biết nhìn lại tâm em trong sự yên lặng.
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạch và mở rộng, thì chẳng có khó khăn nào cản được bước chân em, bấy giờ em không còn hờn ai và trách ai, mà tất cả đều giúp em vui sống và thành đạt.
Và lời sau cùng, tôi muốn nói với em rằng, không có ai thương yêu và tạo nên hạnh phúc cho em, bằng chính tâm hồn an lạc của em, mà cũng không có ai ghét em và tạo ra khổ đau cho em bằng chính tâm tư sầu muộn của em. Nên, tôi mong em hãy quay về tìm lại hạnh phúc ở nơi chính tâm hồn của em, mà đừng bao giờ tìm kiếm hạnh phúc ở nơi bất cứ cái gì khác. Và em hãy nên nhớ rằng, không có sự hạnh phúc và an toàn nào được bảo chứng ở nơi chiếc thảm gấm, do người khác đem đến và trải đường cho em đi, và nếu em muốn đi trên chiếc thảm gấm, thì chính em phải tự dệt và tự chọn lấy con đường để trãi!
Vậy, hiện tại và tương lai của em là gì, em hãy nhìn sâu vào tâm tư của chính em để tự biết và tự chứng nghiệm lấy, đó là những gì mà tôi muốn tâm sự và chia sẻ với em hôm nay!.

Post by Pháp Mãn on Friday, September 16, 2011 at 7:33am

Minh triết sống thung dung phúc hậu

Posted by Hoang Kim on 11.07.2011

THUNG DUNG. Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

Bài giảng đầu tiên của Phật

Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ.  Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý  mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã  có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả  (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và  khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội (1). Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch). (2)

Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới : 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; 2) Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử  và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chêt; 4) Người Thầy của chiến lược vĩ đại  yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người. 5) Con người  hoàn  hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể. (3).

Giáo sư  sử  học Trần Văn Giàu nhận định:  “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !”  (4)

Khoa học và  Bí mật Tâm linh

Bộ phim Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự,  ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm. (5)

Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert). (6)

Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại.

Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

 Xem thêm:

The Life of Buddha – Cuộc đời đức Phật – phụ đề tiếng Việt – full   BBC video

Spring, Summer, Fall, Winter… and Spring (tuyệt phẩm video tập 1-10 và phụ đề)

(1) Trí tuệ bậc Thầy (Hoàng Kim í)
(2) Bài giảng đầu tiên. Hoàng Kim giới thiệu BBC Film The Life of Buddha, Cuộc đời đức Phật  và sách Lời Phật dạy. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula, Lê Diên biên dịch. Nhà Xuất bản Mũi Cà Mau 1994 , 291 trang.
(3) Lên non thiêng Yên Tử (Hoàng Kim)
(4) Giáo sư Trần Văn Giàu bài học lớn trong câu chuyện nhỏ  (Hoàng Kim)
(5) Danh nhân Việt: Đọc lại và suy ngẫm (Hoàng Kim)
(6) Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh về Phật Giáo (Huệ Minh)
(7) Đức Phật và con đường tuệ giác (Thượng Tọa Thích Huệ Thông)
(8) Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông (Hoàng Kim)
(9) Đạo Phật và Khoa học  (Thượng Tọa Thích Huệ Thông giới thiệu sách)
(10) Bí mật Tâm linh The Meta Secret: Video 1,2,3.4.5 Nguồn: Mr. Leon

Hoàng Kim (sưu tầm, tổng hợp, biên soạn)
NGỌC PHƯƠNG NAM, THUNG DUNG, DẠY VÀ HỌC

Minh triết sống thung dung phúc hậu

THUNG DUNG. Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

Bài giảng đầu tiên của Phật

Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ.  Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý  mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã  có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả  (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và  khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội (1). Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch). (2)

Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới : 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; 2) Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử  và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chêt; 4) Người Thầy của chiến lược vĩ đại  yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người. 5) Con người  hoàn  hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể. (3).

Giáo sư  sử  học Trần Văn Giàu nhận định:  “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !”  (4)

Khoa học và  Bí mật Tâm linh

Bộ phim Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự,  ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm. (5)

Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert). (6)

Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại.

Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

 Xem thêm:

The Life of Buddha – Cuộc đời đức Phật – phụ đề tiếng Việt – full   BBC video

Spring, Summer, Fall, Winter… and Spring (tuyệt phẩm video tập 1-10 và phụ đề)

(1) Trí tuệ bậc Thầy (Hoàng Kim í)
(2) Bài giảng đầu tiên. Hoàng Kim giới thiệu BBC Film The Life of Buddha, Cuộc đời đức Phật  và sách Lời Phật dạy. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula, Lê Diên biên dịch. Nhà Xuất bản Mũi Cà Mau 1994 , 291 trang.
(3) Lên non thiêng Yên Tử (Hoàng Kim)
(4) Giáo sư Trần Văn Giàu bài học lớn trong câu chuyện nhỏ  (Hoàng Kim)
(5) Danh nhân Việt: Đọc lại và suy ngẫm (Hoàng Kim)
(6) Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh về Phật Giáo (Huệ Minh)
(7) Đức Phật và con đường tuệ giác (Thượng Tọa Thích Huệ Thông)
(8) Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông (Hoàng Kim)
(9) Đạo Phật và Khoa học  (Thượng Tọa Thích Huệ Thông giới thiệu sách)
(10) Bí mật Tâm linh The Meta Secret: Video 1,2,3.4.5 Nguồn: Mr. Leon

Hoàng Kim (sưu tầm, tổng hợp, biên soạn)
NGỌC PHƯƠNG NAM, THUNG DUNG, DẠY VÀ HỌC

website bách khoa toàn thư văn hóa Việt


THUNG DUNG. Câu chuyện đưa những thí dụ, những nội dung lên các website làm sống dậy trong thế giới mạng những thông tin hữu ích không phải là câu chuyên quá xa lạ mà ý nghĩa của câu chuyện trong cuộc sống đích thực lần này chính là ở việc những người đi “vác tù và hàng tổng” đang bằng những nổ lực cá nhân để có thể xây dựng một cách đầy đủ nhất, đa dạng nhất, đồ sộ nhất về tư liệu để có thể tạo nên một dung diện về văn hóa Việt Nam và cùng với điều đó họ cũng là những người tiên phong đưa công nghệ Wiki 2.0 vào Việt Nam để tất cả những người sử dụng có thể cùng tham gia xây dựng văn hóa Việt với khái niệm đây là một thực thể sống, không bất biến, luôn vận động cùng với sự đóng góp của tất cả mọi người. Chúng ta hãy đến với video website bách khoa toàn thư văn hóa Việt. Chào mừng bạn đến với những tấm lòng và những bài viết sâu sắc, tâm huyết đối với sự nghiệp giáo dục và chấn hưng văn hóa http://vhv.com.vn/

TRÁI TIM HOÀN HẢO
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói:” Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đã đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo ra một bề mặt sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cưòi nói: “Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn trái tim của cụ chỉ là những mảnh chắp, đầy sẹo và vết cắt. ”

– Mỗi vết cắt trong tim tôi tượng trưng cho một nguời mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè… Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tim tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi va con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những vết sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc không cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng mộtngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoản trống mà tôi luôn chờ đợi.

Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu của cụ già đã chảy trong tim anh…

NGƯỜI NHÂN VIÊN SẾP CẦN

Chúng ta ai cũng có mặt ưu điểm vượt trội, để trở thành một nhân viên trụ cột của công ty, ngoài việc nâng cao năng lực nghiệp vụ, bạn cần thể hiện mình là một người có giá trị.

Người nhân viên có giá trị cần trang bị cho mình :
– Cần nỗ lực làm việc cho công ty, sau đó mới tính đến sự báo đáp từ công ty
– Nên đứng từ góc độ của công ty xem xét mọi việc, đối đãi người khác như với chính bản thân mình; luôn tin tưởng vào công việc của mình
– Trở thành người có khả năng giả quyết vấn đề, chứ không phải là người tạo nên mọi vấn đề rắc rối
– Không bao giờ nói “ không” với công việc

Nâng cao năng lực, nỗ lực trong mọi công việc:
Tự giác nâng cao phẩm chất và năng lực bản thân, đừng quá quan tâm đến việc công ty có thăng chức và tăng lương cho bạn hay không. Mà hãy tập trung và hoàn thành công việc, làm các công việc khác hợp với khả năng của mình, bắt đầu từ việc nhỏ nhất để tích lũy thêm kinh nghiệm. Thái độ tích cực và ham học hỏi sẽ rất có ích cho bạn sau này.

Thiết lập các mối quan hệ
So với công việc thì việc xử lí công việc và tạo mối quan hệ với đồng nghiệp, khách hàng còn khó hơn rất nhiều. Hãy dùng thái độ chân thành để thiết lập các mối quan hệ. Điều này không những giúp bạn làm việc một cách thoải mái, còn thúc đẩy tinh thần đoàn kết, nâng cao sự bền chặt của công ty và hiệu quả công việc. Nên đứng vào vị trí của người khác để suy xét mọi vấn đề của công việc. Điều này hoàn toàn có lợi cho sự nghiệp của bạn.

Chú trọng nâng cao hiệu quả công việc
Trong thời đại công nghiệp hiện nay, thời gian chính là tiền bạc, nâng cao hiệu quả công việc đồng thời nâng cao giá trị sáng tạo, tính cạnh tranh và giảm chi tiêu ngân sách cho công ty mang đến hiệu quả kinh tế thực tế. Qua đó để sếp thấy sự cố gắng của bạn xứng đáng đồng lương mà công ty trả cho bạn.

Trở thành người giải quyết các vấn đề
Để trở thành một người trợ lí đắc lực của sếp, khi gặp các vấn đề trong công việc bạn cần đưa ra cách giải quyết, chứ không phải là ỷ lại sếp. Sếp luôn là người có trách nhiệm và người nhân viên sáng tạo là biết cách giúp sếp giải quyết các vấn đề khó khăn. Những nhân viên luôn chủ động hoàn thành công việc được giao và vì lợi ích công ty làm tốt cả phần việc không trong nhiệm vụ của mình là người sếp luôn cần. Ngày nay làm việc dập khuân không phải là mô típ cho một nhân viên năng động.

Công việc chính là sự nghiệp của mình
Bất luận ở giai đoạn nào của sự nghiệp hãy nhiệt tình, năng động, không ngừng sáng tạo vì công ty, hoàn thành và nâng cao giá trị công việc. Không nên có suy nghĩ “ đây không phải là phần việc của tôi ”, vấn đề khó khăn của một người có thể sẽ là cơ hội của người khác, hãy nắm bắt bất cứ cơ hội nào mà bạn có.
Chỉ cần bạn biết kiềm chế, không sợ sự cô đơn và sự cám dỗ của những thú vui thì hoàn thành những kế hoạch của từng ngày , lâu ngày bạn sẽ có những ưu thế hơn người khiến bản thân ngày càng có giá trị.
Giống như nước có thể bào mòn đá vậy những việc bình thường nếu quyết tâm và kiên trì sẽ xuất hiện kì tích mà ta khó đoán trước.

MUỐN THÀNH CÔNG THÌ HÃY ĐỌC BÀI NÀY

Ðây là bài diễn văn của Larry Ellison (Chủ tịch Oracle) tại ÐH Yale vào lễ tốt nghiệp năm 2000 và cũng vì nó, ông bị lôi ra khỏi sân khấu khi đang diễn thuyết.

“Là SV của ÐH Yale, tôi xin lỗi nếu các bạn có thể chịu đựng được phần mở đầu trước, nhưng tôi muốn các bạn làm một điều gì đó cho tôi. Xin hãy nhìn chung quanh bạn. Hãy nhìn người bạn cùng lớp bên trái bạn. Hãy nhìn người bên phải bạn. Bây giờ, hãy xem xét điều này: 5 năm nữa, 10 năm nữa, thậm chí 30 năm nữa, kì quặc là những người bên trái bạn sẽ trở thành người thua cuộc (Loser ). Người ngồi bên phải bạn lúc đó cũng là người thua cuộc. Và bạn, người ở giữa sẽ như thế nào?

Bạn có thể mong mỏi điều gì hơn? Rốt cục bạn cũng sẽ là một gã tồi mà thôi. Tất cả đều thua. Tất cả. Thực tế, khi tôi tìm kiếm trong số những người trước mặt tôi hôm nay, tôi không thấy được hàng ngàn tia hi vọng cho một ngày mai tươi sáng. Tôi không thấy hàng ngàn người lãnh đạo tương lai trong hàng ngàn ngành công nghiệp. Tôi chỉ thấy hàng ngàn kẻ thua cuộc. Bạn lo lắng ư? Dễ hiểu thôi. Sau cùng, tôi, Lawrence “Larry” Ellison, người bỏ học đại học nửa chừng, cả gan hùng hồn thốt ra những điều trái lẽ phải như thế trước khóa tốt nghiệp của một trong những viện có uy tín nhất đất nước này?

Tôi sẽ nói cho các bạn biết tại sao?

Bởi vì tôi, Lawrence “Larry” Ellison, người giàu thứ 2 trên hành tinh, là một kẻ bỏ học giữa chừng, mà các bạn thì không. Bởi vì Bill Gates, người giàu nhất thế giới dù sao đi nữa cũng là một kẻ bỏ học giữa chừng, mà các bạn thì không. Bởi vì Paul Allen, người giàu thứ 3 trên thế giới, cũng bỏ học ÐH giữa chừng, và bạn thì không làm điều đó. Và cứ tính như thế tiếp tục đi. Cho đến Michael Dell, người giàu thứ 9 trên thế giới và ngày càng đi lên rất nhanh, cũng là một thằng bỏ học giữa chừng và bạn, vâng chính lại là bạn, không như thế. Bạn thấy đảo lộn rồi ư? Có thể hiểu được mà.

Vì vậy hãy để tôi chọc giận cái tôi trong bạn bằng cách chỉ ra, một cách thẳng thắn, là bằng cấp của bạn chẳng có giá trị gì hết. Phần lớn các bạn, tôi tưởng tượng là, đã trải qua 4,5 năm ở đây, bằng nhiều cách bạn cố gắng học và chịu đựng những gì sẽ có lợi cho bạn trong những năm sắp tới. Bạn đã lập ra một thói quen làm việc tốt. Bạn đã thiết lập nên một mạng lưới các quan hệ để có thể giúp đỡ bạn khi bạn vấp ngã trên con đường của mình. Và bạn đã tạo ra những gì có quan hệ suốt đời với từ “cách chữa bệnh”.

Tất cả điều đó đều tốt. Sự thật là bạn sẽ cần đến mạng lưới đó. Bạn sẽ cần những thói quen làm việc chăm chỉ. Bạn sẽ cần “cách chữa bệnh”. Bạn sẽ cần nó vì bạn không bao giờ bỏ học nửa chừng, và chính vì thế, vâng, bạn sẽ không bao giờ ở trong số những người giàu nhất thế giới. Oh, chắc chắn là làm theo cách của bạn sẽ không bao giờ vươn tới số 10, 11 như Steve Ballmer. Nhưng mà, tôi không nói cho bạn biết là thực sự ông ta đang làm cho ai phải không?

Và để có được thành tích đó, ông ta đã bỏ học. Hơi trễ, đó là sai lầm lớn. Cuối cùng, tôi nhận ra rằng, nhiều bạn ở đây, hi vọng là đa số các bạn, tự hỏi rằng ” Tôi có thể làm cái gì đây? Không còn hi vọng cho tôi nữa sao?”

Thật sự là không. Quá trễ rồi. Bạn đã miệt mài quá nhiều, tôi nghĩ là bạn biết là quá nhiều. Bạn sẽ không là người thứ 9. Bạn có một cái mũ dính liền, tôi không ám chỉ đến cái mũ vuông ( trong đồng phục lễ tốt nghiệp) mà bạn đang đội trên đầu. Hmm… Bạn thực sự thấy lo lắng ư ? Dễ hiểu mà. Vì thế đây có lẽ là dịp tốt để nuôi dưỡng niềm hi vọng. Không phải cho các bạn mà là cho khóa mới sắp tới kia. Các bạn là đồ phế thải rồi, vì thế tôi sẽ để các bạn lãnh mức lương thảm hại 200.000 đô la một năm, nơi mà đơn xin vào làm của các bạn sẽ được những thằng bỏ học hai năm trước đây kí.

Thay vào đó, tôi muôn mang lại hi vọng cho những bạn mới vào trường. Tôi muốn nói với các bạn, là tôi nhấn mạnh điều này: nên bỏ học. Hãy xếp đồ đạc và cả những ý tưởng lại và đừng quay trở lại nữa. Bỏ học đi. Ðứng dậy đi. Ðiều tôi muốn nói với bạn là cái mũ và áo choàng tốt nghiệp sẽ kéo bạn xuống chắc chắn như là những người bảo vệ kia sẽ lôi cổ tôi xuống khỏi sân khấu này…

(Ðến lúc này thì chủ tịch của Oracle bị mời xuống khỏi sân khấu)

Bạn hãy tự trả lời: Vì sao như thế?

Nguồn: http://vhv.com.vn/ ;
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

THUNG DUNG, DẠY VÀ HỌC

Vào Tràng An – Bái Đính

Trước khi lên Yên Tử
Vua Trần vào ở đây
Động thiêng trong núi thắm
Hạ Long cạn nơi này

Đinh, Lê vùng khởi nghiệp
Lý, Trần, Nguyễn …vươn dài
Kỳ Lân trời bảng lãng
Hoàng Long sông chảy hoài

Cao Sơn thăm miếu cũ
Tràng An bao đổi thay
Minh Không thầy đâu nhỉ ?
Lững lờ mây trắng bay …

Hoàng Kim
https://picasaweb.google.com/hoangkim.vietnam/TrangAnBaiDinh?authkey=Gv1sRgCPq40_OxueGrUA#

Tinh khôi, góc nhìn cuộc sống




DẠY VÀ HỌC. TA NỢ của Phan Chí Thắng là bài thơ hay ” Ta nợ mặt trời chiếc bóng dưới chân/ Ta nợ đêm thu tiếng sáo trong ngần/Ta nợ mẹ già tháng năm tần tảo/ Ta nợ vợ hiền một thời thanh xuân/Ta nợ cuộc đời cúi đầu tạ lỗi/ Ta nợ quê hương núi thẫm ráng chiều/ Ta nợ lòng mình những lần thất hẹn/ Ta nợ cuộc tình khoá lễ cầu siêu.” Đó là góc nhìn khác về cuộc sống so với NỢ của Nguyễn Duy. “Nợ người khóe mắt rưng rưng/ nợ sông giọt nước nợ rừng bóng cây/ Nợ em lận đận tháng ngày/ ánh trăng ngọn gió áng mây nợ trời “. Đọc và chiêm nghiệm hai bài thơ này, ta hiểu thêm câu kết xúc động trong BÀI THƠ VIỆT BẮC của Trần Dần “Đi/ Tất Cả/Dù quen tay vỗ nợ/Cũng chớ bao giờ/ vỗ nợ/ NHÂN DÂN , nhớ Tinh khôi “Ta nợ em vần thơ âm thầm / Đăm đắm dõi nhìn từ nơi sâu thẳm / Ta nợ em một tà áo trắng / Đi trọn cuộc đời ơn nghĩa trăm năm ” và thấu hiểu câu kinh Phật: “Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.”

TA NỢ

Phan Chí Thắng

Ta nợ mặt trời chiếc bóng dưới chân
Ta nợ đêm thu tiếng sáo trong ngần
Ta nợ mẹ già tháng năm tần tảo
Ta nợ vợ hiền một thời thanh xuân

Ta nợ cuộc đời cúi đầu tạ lỗi
Ta nợ quê hương núi thẫm ráng chiều
Ta nợ lòng mình những lần thất hẹn
Ta nợ cuộc tình khoá lễ cầu siêu

NỢ

Nguyễn Duy

Nợ thương nợ ghét nợ yêu
toác toàng toang vỡ bao nhiêu nợ nần

Nợ đời ngót nghét tấm thân
nợ con đường xác dấu chân chôn vùi

Nợ ly trắng nỗi đầy vơi
nợ bè bạn dốc cuộc chơi tưng bừng

Nợ người khóe mắt rưng rưng
nợ sông giọt nước nợ rừng bóng cây

Nợ em lận đận tháng ngày
ánh trăng ngọn gió áng mây nợ trời

Nợ hương sắc cõi thắm tươi
giấc mơ nợ xứ xa vời thần tiên

Dễ gì quịt nợ đâu em
nợ không trả được bằng tiền mà đau

BÀI THƠ VIỆT BẮC

Trần Dần

(Trích)

Ở đây
Ta mắc nợ
núi rừng
Một món nợ
khó bề trang trãi
Việt Bắc
Cho ta vay
địa thế!
Vay từ
bó củi
nắm tên
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta
Ta mắc nợ
Những rừng sim bát ngát
Nợ
bản Mường heo hút
chiều sương
Nợ
củ khoai môn
nợ
chim muông
nương rẫy
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu
Nợ
con suối
dù trong
dù đục
Nợ
những người
đã ngã
không tên

Ôi
thế kỷ
muôn quên
ngàn nhớ
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!

Đi!
Tất Cả!
Dù quen tay vỗ nợ
Cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
NHÂN DÂN!

TINH KHÔI

Ba lần ngập trong nước trong
Ba lần tắm trong máu đỏ
Ba lần nấu trong nước giặt
Ta trong sạch hơn những người trong sạch nhất !
(A. Tonstoy)

Ta nợ em vần thơ âm thầm
Đăm đắm dõi nhìn từ nơi sâu thẳm
Ta nợ em một tà áo trắng
Đi trọn cuộc đời ơn nghĩa trăm năm

Áo em tinh khôi dẫu em phong trần
Viên ngọc trong ngần, tình yêu tỏa sáng
Mùa thu dẫu qua, mùa đông dẫu đến
Tình giữa chúng mình mãi mãi mùa xuân.

Hoàng Kim

Bí ẩn tâm linh đọc và suy ngẫm

THUNG DUNG. Khổng Tử không nói những chuyện ma quái, bạo lực, phản loạn, thần thánh (Quái, lực, loạn, thần, Tử bất ngữ dã). Viên Mai viết “Tử bất ngữ” (Những chuyện Khổng Tử không nói) nổi tiếng và đã có hai câu thơ rất quen thuộc tại Việt Nam: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch. Lập thân tối hạ thị văn chương” . Ông cho rằng bậc thánh nhân đều giữ hai chữ trung tín làm đầu trong nghiệp văn chương mà không lạm bàn viễn vông chuyện chết khi chưa biết hết chuyện sống. Quỷ thần nên kính nhưng hãy tránh xa.Kinh Dịch và bí ẩn tâm linh đáng đọc. Tôi đồng tình với ông vì sự hợp lý và vì tự mình cũng đã đôi ba lần trãi nghiệm nên không thể quên (sẽ xin kể sau). Câu chuyện dưới đây của GS. Trần Phương với Phan Thi Bich Hằng (ảnh) và bí ẩn hiện tượng tìm mộ đã cho thấy năng lực dự cảm cần sự nghiên cứu, giải mã và khai mở…

Phan Thi Bich Hằng và bí ẩn hiện tượng tìm mộ

Nhớ lại hành trình tìm hài cốt người em gái qua các nhà ngoại cảm, GS Trần Phương (tên thật là Vũ Văn Dung), nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, xúc động: “Hài cốt em tôi đã tìm thấy, nhưng những con đường dẫn đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn”. (Ảnh: Giáo sư Trần Phương và Phan Thị Bích Hằng )

GS Trần Phương có cô em gái, sinh năm 1929, tên là Vũ Thị Kính. Trong kháng chiến chống Pháp, cô lấy bí danh là Trần Thị Khang. 16 tuổi, cô Khang đã tham gia cách mạng, làm giao liên rồi trở thành cán bộ phụ vận có uy tín. Năm 1950, cô là Huyện ủy viên Đảng bộ Phù Cừ, Bí thư Phụ nữ cứu quốc huyện, người tổ chức và chỉ huy Đội nữ du kích Hoàng Ngân nổi tiếng một thời.

Tháng 6/1950, trong trận càn quét, địch đã bắt được cô dưới hầm bí mật, đưa về bốt La Tiến, là một bốt khét tiếng tàn ác, án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên. Giặc Pháp đã dùng mọi thủ đoạn cực hình tra tấn hòng buộc cô khai báo, thế nhưng, cô không hé răng nửa lời. Biết không thể thu thập được thông tin gì từ cô, chúng đã giết cô rồi vứt xác xuống sông Luộc. Sau khi cô hy sinh, Đội nữ du kích Hoàng Ngân của huyện đã phát động tuần lễ giết giặc trả thù cho cô. Chính phủ đã truy tặng cô Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.

Huyện ủy và Đội nữ du kích Hoàng Ngân đã tổ chức đi tìm hài cốt cô Khang nhiều năm ròng nhưng không thấy. GS Phương kể: “Mẹ tôi hồi còn sống thỉnh thoảng lại hỏi: Có tìm thấy em không? Tôi đành tìm lời an ủi: “Bao giờ hết chiến tranh, con sẽ tổ chức việc tìm kiếm chắc được thôi mẹ ạ”. Nói thế mà lòng tôi đau nhói vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả dòng sông Luộc mênh mông như thế, biết tìm ở đâu.

GS Phương cho biết, ông là người được đào tạo theo tinh thần khoa học thực nghiệm nên cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Chính vì không tin chuyện thần thánh, ma quỷ nên những ngày giỗ bố mẹ, em gái, tổ tiên ông không làm cơm cúng, không thắp hương mà chỉ cắm vài bông hoa tươi để tưởng nhớ.

Những năm gần đây, khi nghe tin nhiều người tìm được hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm, nhưng GS Phương cũng không tin là chuyện có thật, ông cho rằng đó là trò lừa bịp. Tuy nhiên, được sự hướng dẫn của nhiều người, ông cũng muốn tò mò thử xem sao.

Để giúp GS Phương, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã đã bay từ TP HCM ra Hà Nội. Anh Nhã kể với GS Phương rằng, anh từng là một kỹ sư hóa, đảng viên, nhiều năm công tác ở Đoàn Thanh niên TP HCM.

Anh Nhã có khả năng ngoại cảm do học thiền. Anh đã vẽ sơ đồ cả ngàn ngôi mộ và các nhà khoa học thống kê thấy chính xác 60%. Bản thân anh cũng không hiểu vì sao anh có khả năng đó, chỉ biết rằng thông tin đến với anh thế nào thì anh vẽ ra vậy, còn thông tin đúng hay sai, đối với anh cũng vẫn là điều bí ẩn.

“Trận đồ bát quái” của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã

Trong căn phòng làm việc của GS Phương, anh Nhã hỏi vài thông tin về cô Khang, rồi anh lấy một tờ giấy to và mấy cây bút màu ra vẽ bản đồ. Anh Nhã vẽ một cách thư thả, lưu loát, không có vết gạch xóa nào. Trên bản đồ thể hiện con sông uốn lượn, đường to đường nhỏ giao nhau và ghi rõ: Từ bến đò La Tiến đi về hướng đông nam thấy một trường học, đi chừng 1,6km thì đến ngã tư, phía trái ngã tư thấy quán tạp hóa có cửa màu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải thấy cái đình.

Đi chừng 1km thì rẽ trái vào con đường nhỏ. Đi tiếp 60m rồi rẽ phải, đi khoảng 45m nữa thì đến mộ. Mộ nằm trên đất nhà cô Nhường, 47 tuổi. Đối diện với mộ là quán ông An, 56 tuổi. Mộ chôn đầu về hướng tây, cách gốc cây đa 4m, trên mộ có một khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và 5 cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.

Đọc lời miêu tả trên bản đồ thấy hoa cả mắt, nhiều đường loằng ngoằng như vậy thì sẽ rất khó chính xác. Thấy GS Phương có vẻ suy nghĩ, anh Nhã liền bảo: “Tôi sẽ cho GS một tín hiệu để tìm nhé”. Nói rồi anh Nhã ghi vào bản đồ: 13h30 ngày thứ tư 28/7 sẽ có một bé gái chừng 11 tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ. Anh Nhã còn dặn tiếp: “Nếu GS đến sớm thì 5 cây cỏ dại có 10 bông hoa tím, nếu đến muộn thì chỉ còn 5 bông”.

GS Phương ngạc nhiên quá liền hỏi: “Anh không biết gì về vùng đất đó, vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ tấm bản đồ chi tiết đến vậy?”. Anh Nhã nói: “Tôi thấy trong đầu hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế, tôi cũng không hiểu”. GS Phương hỏi tiếp: “Còn tên những người như cô Nhường, ông An, sao anh biết?”. Anh Nhã giải thích: “Tôi thấy trong tai có những âm thanh ấy. Có thể là Nhương, Nhường hoặc Nhượng. Cũng có thể là 47 hoặc 87 tuổi. Còn An thì cũng có thể là Am…”.

Trao đổi xong, anh Nhã liền chia tay GS Phương, vào TP HCM để tiếp tục công việc của lãnh đạo một doanh nghiệp. Tin thì ít, ngờ vực thì nhiều, song GS Phương vẫn thử làm theo lời chỉ dẫn của anh Nhã.

Theo chỉ dẫn, gia đình GS Phương vượt 100km từ Hà Nội về bến đò La Tiến. Tuy nhiên, tìm suốt cả buổi mà không thấy dấu hiệu khớp với bản đồ anh Nhã vẽ. Tình cờ lúc đó có một cụ già tên Yên ở làng đi qua, xem bản đồ rồi bảo: Bản đồ này vẽ theo đường ngày xưa, những con đường hầu như đã được nắn lại. Các địa điểm trên bản đồ và thực tế cũng không chính xác về cự ly. GS Phương liền gọi điện cho anh Nhã và anh bảo, miễn là tìm thấy các dấu hiệu như đã tả sẽ thấy phần mộ, còn cự ly thì có thể do anh ước lượng không chính xác.

Tham khảo những người già trong làng về thực địa xưa kia của ngôi làng, cùng với những chỉ dẫn trên bản đồ, GS Phương cũng xác định được các dấu vết như trường học, đình, quán tạp hóa, những con đường, ngõ ngách… Thông tin đã dẫn đến nhà ông Điển, một nông dân trong làng. Ông Điển khẳng định đất trong đê không thể có hài cốt. Ông Điển chỉ cho GS Phương dải đất bãi ngoài đê, cạnh vụng Quạ.

Người dân ở đây gọi là vụng Quạ bởi nơi đây ngày xưa có nhiều quạ bay đến ăn xác chết bị cuốn vào đây. Cạnh vụng Quạ có 3 ngôi mộ vô thừa nhận. Tuy nhiên, không thấy có dấu hiệu nào quanh 3 ngôi mộ như anh Nhã nói nên mọi người lại vào làng.

Trong làng, giữa một mảnh đất khá rộng, có một ngôi nhà quay về hướng nam, có sân gạch, tường hoa, mảnh vườn có những vạt dây lang và cái ao nhỏ. Cạnh đó có con đường làng, đầm sen rộng mênh mông. Phía bên kia đầm sen là đê sông Luộc. Sau ngôi nhà là một vườn chuối. Mảnh vườn phía tây ngôi nhà trồng mít um tùm, dưới đất đầy cỏ dại, toàn một loại hoa bằng hạt thóc màu tím nhạt. Anh Nhã bảo chỗ ngôi mộ có 5 cây hoa màu tím, nhưng trong mảnh vườn này đếm đến cả vạn cây. Đâu đâu cũng thấy gạch vỡ bừa bãi, cành cây mục, như đánh đố những người tìm kiếm.

Ngay chân đê sông Luộc là nhà anh An, 45 tuổi. Nhà xây bằng gạch để ở chứ không bày biện bán hàng như anh Nhã nói. Tuy nhiên, chị vợ anh An cho biết, nhà có một quán hàng ở chợ, song nếu người quanh xóm mua hàng thì vợ chồng anh cũng có để bán. Còn đất bà Nhường? Cả làng không có ai tên Nhường hay Nhượng mà chỉ có bà Nhương, 70 tuổi.

Qua những dấu hiệu trên, có thể kết luận rằng những thông tin dẫn dắt việc tìm đến ngôi mộ đã có đủ, nhưng những dấu hiệu của ngôi mộ thì lại không thấy. Mọi người đành nghỉ ngơi để chờ đến 13h30, xem có cháu bé dẫn đường như anh Nhã miêu tả hay không.–PageBreak–

Lúc đó là trưa hè oi ả. GS Phương chợt nghĩ, ở cái làng hẻo lánh giáp đê này thì kiếm đâu ra một bé gái mặc áo hoa xanh? Mặc dù vậy, GS vẫn phân công mọi người đón các ngả đường dẫn đến nhà ông Điển. Cả giờ đồng hồ đường xá vắng tanh. Quá 15 phút mà vẫn không thấy bóng người. Bỗng một tốp thanh niên cười nói đạp xe từ cuối làng qua. Nhưng tất cả là con trai.

Mấy phút sau thì có một tốp con gái cũng từ cuối làng đi tới. Tuy nhiên, một cháu dường như không muốn đi nữa mà đứng lại. Cháu bé mặc áo màu xanh lá cây, có hai bông hoa in to trước ngực. Cô bé bảo mình đã 15 tuổi, nhưng trông vóc người nhỏ hơn so với bạn bè cùng tuổi.

GS Phương hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận, cháu gái này chỉ mấy ngôi mộ ở vườn chùa ngay cạnh đó. Tuy nhiên, đây là những ngôi mộ của những người chết đói năm 1945. Cô bé lại chỉ 3 ngôi mộ phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ. Khi ra chỗ vụng Quạ, cô bé đứng chừng nửa tiếng bên bờ ao trước nhà ông Điển mà không có mục đích gì cả. GS Phương thầm nghĩ: “Phải chăng đó là tín hiệu anh Nhã “điều” cho mình?”. Nhưng rồi cuối cùng không khai thác được gì từ cô bé cả.

Đến chiều, gần như mất hết phương hướng, GS Phương lại gọi điện cho anh Nhã. Anh Nhã bảo GS Phương đi tìm ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ.

Mọi người tìm khắp làng chỉ thấy những ngôi nhà màu vàng hoặc xám. Cuối cùng mọi người mới chợt nhận ra cái quán nước bên đường bé tí tẹo, thấp lè tè, đủ kê chiếc giường, bày bán vài thứ hàng lặt vặt được quét vôi 4 mặt trắng xóa. Mọi người tạm cho đó là ngôi nhà. Còn hoa đỏ chính là cái đầm sen trước mặt với một biển hoa đỏ. Khi đó trời đã nhá nhem tối, mọi người phải rút về.

Qua điện thoại anh Nhã dặn GS Phương: “Tìm được quán trắng làm mốc là tốt rồi. Ngày mai sẽ tìm tiếp. Tìm mộ là một quá trình vất vả, không phải một lần là thấy ngay được”.

Sau đó anh chỉ dẫn cho công việc ngày mai: 8h sáng có mặt ở quán sơn màu trắng. Khi đó sẽ có một con chó vàng nâu đến cách đó chừng 10m, nó nhìn xem mình có đi theo nó không, rồi quay đi. Hãy đi theo nó. Nó sẽ đi hơn 100m rồi dừng lại ngửi và bới.

Cần quan sát khu vực đó để tìm những dấu hiệu phần mộ như đã ghi trên bản đồ. Nếu tín hiệu trên không xuất hiện thì hãy tìm một con chó vàng nằm ốm một chỗ rồi đánh dấu chỗ đó mà đào.

Hôm sau, mọi người chờ mãi không thấy con chó nào xuất hiện liền chia nhau vào trong làng tìm. Trong làng nhà nào cũng thấy nuôi chó vàng và hễ thấy ai vào là chúng lao ra sủa ầm ĩ. Tìm kiếm mãi rồi cũng thấy một con chó vàng nằm ệp trong nhà cụ Nhờ. Nhưng con chó không phải ốm mà nó chửa, rồi không ăn cơm, cứ nằm im một chỗ.

Mọi người đổ ra khắp ngả tìm kiếm quanh vòng tròn bán kính 10m, lấy tâm điểm là nơi con chó nằm. Thế rồi mọi người phát hiện ra một gốc cây đổ bằng bắp chân, bị vạt rau lang vùi lấp. Cách gốc cây chừng 2m có mấy viên gạch vỡ màu nâu đỏ. Cách mấy viên gạch vỡ đó chừng 3m về hướng đông thì có cây cam cạnh bức tường. Có 5 gốc cây dây leo mọc bên cây cam và bám vào tường. Mọi người đếm kỹ thì thấy mỗi cây có 2 bông hoa tím nhạt, to bằng ngón tay.

Qua điện thoại, anh Nhã hướng dẫn: Từ gốc cây đổ đến dây hoa tím vẽ thành một hình tam giác rồi đứng vào giữa, đánh dấu lại. Lấy một chiếc đũa cắm vào, rồi tự tay GS đặt một quả trứng lên đỉnh chiếc đũa. Nếu quả trứng nằm im thì đào chỗ đó, còn trứng rớt xuống thì cắm lùi ra nửa mét.

Tuy nhiên, GS Phương hết đặt đứng lại đặt nằm, quả trứng vẫn lăn bịch xuống đất. GS Phương bực mình nghĩ: Chỉ tại cái đũa chết tiệt. Đầu đũa tiết diện nhỏ quá mà lại không phẳng thì làm sao mà đặt cho cân được. Ông liền lùi lại nửa mét, cắm chiếc đũa và đặt quả trứng. Kỳ lạ quá, quả trứng nằm im trên đầu đũa.

GS Phương khá ngạc nhiên nhưng ông không tin có sự can thiệp của linh hồn người chết, bởi theo ông trên đời làm gì có linh hồn, mà nếu có linh hồn thì nó cũng đâu phải là một lực tác động vật chất?

Trước khi tiến hành đào bới, mọi người tạm nghỉ, ra bến đò La Tiến ăn cơm. Trời đang nắng gắt bỗng giông gió nổi lên, mây đen ùn ùn kéo đến rồi mưa tầm tã suốt một giờ đồng hồ. Tạnh mưa, mọi người quay về thì sửng sốt khi thấy quả trứng vẫn yên vị trên đầu đũa. Chẳng lẽ khi mưa, bao giờ cũng có hai giọt nước rơi cân bằng xuống hai đầu quả trứng? Chẳng nhẽ gió to như vậy mà không có tác động gì? Theo lời GS Phương, khi ông gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa, hai tay ông cảm giác như có lực hút nhẹ. Ông nghĩ: Phải chăng nước mưa đã làm giãn nở quả trứng và chiếc đũa tre khiến cho quả trứng gắn chặt vào đầu đũa?

Hai tốp thợ thay nhau đào sâu, rộng như lời anh Nhã nói. Rồi đào thêm về hướng nam vài mét. Tuy nhiên, đào đến tối mịt, hố sâu đến gần 3m mà vẫn chỉ thấy đất và cát. Mọi người đều tỏ ra chán nản và cảm thấy “thầy” Nhã đã hết “phép”. Mặc dù vậy, GS Phương vẫn quyết định phải tiếp tục tìm kiếm, hy vọng tìm được hài cốt em gái.

Ngày thứ ba, rồi ngày thứ tư, gia đình GS Phương tiếp tục tìm kiếm, thậm chí vượt cả sang bên kia sông, thuộc đất Thái Bình để đi tìm những địa danh giống như trên bản đồ “thầy” Nhã vẽ, kết cục là sự chán nản, mất hết niềm tin. GS Phương cũng như những người con, anh em, đều là những nhà khoa học, vốn đã không tin những chuyện tâm linh, nay trực tiếp đi tìm mộ không thành thì lại càng mất niềm tin vào các nhà ngoại cảm. Tất cả các hướng tìm kiếm như trên bản đồ và sự chỉ dẫn của anh Nhã coi như tắc tị.

GS Phương chợt nghĩ: “Ông Nhã này đánh đố mình. Ông ấy bày ra cả một “trận đồ bát quái” rồi bảo mình đi tìm cho đủ. Lục tìm cả đất nước này chưa chắc đã có nơi nào khớp với cái “trận đồ bát quái” của ông”. Nhưng GS Phương lại nhớ đến lời của anh Nhã rằng khả năng tìm mộ của anh chỉ trúng 60%, vậy thì chẳng có lý gì để thắc mắc khi trường hợp của mình rơi vào 40% kia?

Tìm được hài cốt nhờ “gọi hồn”

Cô Khang thời trẻ. Sau mấy phút dán mắt vào tấm hình cô Khang, chị Hằng bỗng hớn hở: “Cháu chào cô ạ. Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi hài cốt của cô hiện nay ở đâu?”. Rồi chị Hằng quay sang phía GS Phương hạ giọng: “Có một người đàn ông về đây cùng với cô Khang. Chú ấy nói tên là Sơn”. GS Phương rùng mình xúc động.Cuộc tìm mộ bằng sự hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã coi như thất bại. Mặc dù thất vọng lắm, song GS Trần Phương vẫn thử lần cuối với nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất, mà nhiều người ở Hà Nội biết đến, đó là Phan Thị Bích Hằng.

Mọi người đồn đại rằng, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng có khả năng “gọi hồn”, song GS Phương vẫn không tin trên đời lại có linh hồn. Việc gặp chị Hằng ngoài tìm kiếm thông tin về ngôi mộ cũng là kiểm nghiệm xem có linh hồn thật hay không. Buổi tiếp xúc với nhà ngoại cảm hôm đó chỉ có GS và hai chị em gái của ông. GS dặn trước hai người không được nói gì kẻo để lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.

Khác với anh Nhã, chị Hằng yêu cầu GS đặt lên bàn một chiếc cốc, một vốc gạo để cắm hương, một ngọn nến và một bức ảnh của cô Khang. Khi đó chị Hằng nói rằng: “Bác không thờ trong căn phòng này bao giờ nên có thể cô Khang khó về”. Nghe chị Hằng nói vậy, GS Phương giật mình. Chẳng những ông không thờ bao giờ mà từ 10 năm nay ông không ở ngôi nhà này, mà giao cho con ở.

Sau đó, theo lời kể của GS Phương, “linh hồn” cô Khang đã về theo tiếng gọi của chị Hằng. Chuyện này được ông chép lại rất tỉ mỉ:

Sau mấy phút dán mắt vào tấm hình cô Khang, chị Hằng bỗng hớn hở: “Cháu chào cô ạ. Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi hài cốt của cô hiện nay ở đâu?”. Rồi chị Hằng quay sang phía GS Phương hạ giọng: “Có một người đàn ông về đây cùng với cô Khang. Chú ấy nói tên là Sơn”. GS Phương rùng mình xúc động. Người tên Sơn chính là người anh, người đồng chí, người bạn thân thiết nhất của ông đã hy sinh.

Qua “phiên dịch” của chị Hằng, “linh hồn” cô Khang nói: “Anh không có duyên rồi. Anh đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong Đội Hoàng Ngân của em cứ bảo sao lâu không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào ba bước chân về phía bờ ao”.

GS Phương hỏi: “Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?”. “Đến bờ ao cũng còn 3 bước chân nữa. Phía trên em chừng 2m là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên Đội Nữ du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cách chỗ em nằm cũng chừng 2m về phía đông là một người đàn ông bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên, ba cái mộ dường như nằm trên một đường thẳng. Hai người kia bị giết cùng một ngày với em.

Chúng cột tay ba người lại với nhau rồi vứt xuống sông lúc nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy ngày sau xác mới nổi lên. Dân vớt được mới đem về đây chôn. Xa hơn còn 7 người nữa cơ. Mấy người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu, còn nổi lên sau thì đến manh chiếu cũng không có nói gì đến quan tài”.

Sau đó, “cô Khang” còn chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với các đặc điểm về cây cỏ xung quanh mà GS Phương nhận ra ngay. GS Phương hỏi tiếp: “Em có biết chỗ em nằm thuộc đất của ai không?”. “Cô Khang” bảo không biết đang nằm trên đất của ai.

Chị Hằng nhìn vào khoảng không hỏi: “Hài cốt của cô còn nguyên vẹn không?”, thì “cô Khang” nói với GS Phương: “Chúng đánh em gãy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai chiếc răng hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn, vì chôn có quan tài đâu”.

GS Phương hỏi với ý tứ điều tra: “Răng em màu gì?”. “Bây giờ màu đen”. Ông vội cãi: “Nhưng trước đây răng em trắng cơ mà?”. “Cô Khang” nói tiếp: “Em chưa nói hết. Răng em đen xỉn do bùn đất ngâm vào chứ không phải đen hạt na. Ngày xưa, các anh ấy hay trêu em là có hàm răng đẹp nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Nếu anh có đào nhầm sang mộ khác thì anh vẫn có thể nhận ra ngay, vì hàm răng của em không thể lẫn được.

Cả khuôn mặt em cũng vậy. Tuy gò má bên trái có bị dập, nhưng cả khuôn mặt thì vẫn còn. Anh có thể dễ dàng nhận ra em. Nhưng khi đào anh phải cẩn thận, vì chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay”.

Nghe “cô Khang” nói vậy, GS Phương xúc động trào dâng. Mặc dù chỉ được nhắc đến một cách kín đáo, nhưng ông nhận ra ngay những đặc điểm của người em gái. Người con gái đã lìa đời 50 năm mà vẫn không quên niềm tự hào về nhan sắc của mình, được các chàng trai ngưỡng mộ. Nghĩ vậy, lòng ông chợt xót xa.

“Cô Khang” còn dặn tiếp: “Khi đào, anh chú ý cổ tay em vẫn còn cái vòng bằng sắt. Thực ra đó là cái còng sắt chúng xích tay em vào tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương”. GS Phương hỏi: “Nếu tìm được hài cốt của em thì đưa em về quê mình, cạnh mộ bố mẹ hay là đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, nơi anh Sơn đang nằm?”.

“Cô Khang” nói: “Mẹ bảo em rằng: Con là phận gái thì về với bố mẹ để sau này cháu chắt còn viếng thăm, hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: Em đã đi theo Đội du kích Hoàng Ngân em cứ về nghĩa trang liệt sĩ. Tổ quốc ghi công mình đời đời người ta thắp hương cho mình chứ đâu chỉ có con cháu trong gia đình”.

Sau một hồi GS Phương trò chuyện cùng em gái, thì “anh Sơn” lên tiếng “trò chuyện” với ông. GS Phương xúc động quá, không kìm được lòng, thốt lên như muốn khóc: “Trời ơi, anh Sơn!”.

Người tên Sơn hơn GS Phương 4 tuổi, từng là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông, được điều vào bộ đội khi thành lập Đại đoàn 320 làm Trưởng ban Tuyên giáo của Đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh, vào tháng 6/1951.

Để kiểm nghiệm tiếp tính xác thực của “linh hồn”, GS Phương đưa cho chị Hằng bức ảnh đã thủ sẵn trong túi định bụng sẽ hỏi “linh hồn” về người này, nếu “linh hồn” không nhận ra thì hẳn là chuyện tào lao, những câu giao tiếp như với “linh hồn” chỉ là do Hằng bịa ra cho sinh động.

Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng xem ảnh và bảo đúng là bác Sơn, nhưng trông già hơn trong ảnh. Thực tế, bức ảnh chụp năm 1948 trong tư thế rất bảnh trai, khi GS Phương đang công tác ở Sơn Tây.

“Anh Sơn” nói: “Chú tìm em Khang mà không nói với anh một câu. Lần sau báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường chú đến tận nơi. Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may là khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình dạt vào, nếu không đã trôi tuột đi rồi”. GS Phương hỏi: “Anh bảo sẽ dẫn đường cho em, nhưng làm cách nào em nhận ra được?”.

“Anh Sơn” nói tiếp: “Anh không thể nắm tay chú nhưng anh sẽ tìm một con vật nào đấy, con ong, con bướm chẳng hạn, rồi sai khiến nó để nó dẫn đường cho chú. Chú cứ đi theo nó đến chỗ nó đậu”.

GS Phương còn hỏi ngày giỗ cô Khang là ngày nào thì “cô Khang” trả lời: “Đối với anh Phương thì ngày nào mà giỗ chả được. Em bị chúng nó bắt có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ một hôm vào khoảng 18 hay 19 gì đó thằng quan tư bảo: “Bọn mày cứng đầu đến ngày 24 mà không khai thì bắn bỏ”. Anh cứ lấy ngày ấy là được, còn ngày âm lịch thì em không biết là ngày nào”. Sau này so ra thì mới biết ngày 24/5/1950 là ngày 10/5 âm lịch.

Sau khi trao đổi vài thông tin quanh chuyện tìm mộ thì “linh hồn” cô Khang và anh Sơn biến mất. Khi đó, cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa hết. GS Phương đã nghe đi nghe lại cả trăm lần cuốn băng này và ông không thể nào bác bỏ những sự thật hiển nhiên của cái gì đó gọi là “linh hồn”. Vậy nên, ông tiếp tục tiến hành cuộc tìm mộ người em gái lần thứ hai.

GS Phương cùng anh em trong nhà tiếp tục xuống địa điểm đào bới lần trước. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cùng đi để chỉ địa điểm cho chính xác. Chị Hằng đến gần gốc nhãn, ngắm nghía một lát rồi cắm hương xuống đất. Lấy bó hương làm tâm, chị vạch một ô hình chữ nhật để đào.

Nhìn bó hương của chị Hằng, GS Phương thấy nó cách chỗ đặt quả trứng lần trước 2m ra phía bờ ao, nhưng lại lui về hướng đông 1m. So với điểm con bướm đậu và cây que thì cũng xê dịch chừng 1m về hướng đông.

Trong khi thợ đào đất chuẩn bị làm việc, nhà ngoại cảm Bích Hằng đặt ảnh cô Khang dưới gốc cây vải phía cuối cái hố rồi nói: “Thưa cô, chỗ cô nằm thì cháu đã vạch theo tọa độ cô chỉ dẫn rồi, cô xem đã thật chính xác chưa để chỉ bảo cho cháu. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy còn rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không được đầy đủ thì cô cũng thông cảm cho…”.

“Anh Sơn” nói chen vào qua sự “phiên dịch” của Bích Hằng: “Cứ bốc cho bằng hết, dù ít dù nhiều thì cũng là máu thịt của em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho em”.

“Cô Khang” lại nói tiếp: “Nếu có cách gì làm cho cụ Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi mất công đi tìm kiếm. Rất tiếc là đã gặp cụ ở âm phủ mất rồi. Em bị chúng nó ném xuống sông, khi xác nổi lên gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh nên được cụ Giám vớt lên kéo qua một cái rãnh nước. Cụ bảo: Mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào ông An lên hương thì vào mà xin lộc”.

Sau một hồi trò chuyện trên trời, dưới bể liên quan đến những hài cốt ở quanh khu vườn, chị Hằng “xin phép cô Khang” cho bắt đầu đào mộ.

Đào hết lớp đất “vượt thổ” thì chị Hằng ra lệnh cho thợ ngừng đào. Chị nhảy xuống hố lấy dầm gạt nhẹ từng lớp cát đen. Chưa đến một gang tay thì vướng ngay vào thanh củi mục. Nạy lên, ngâm vào nước thì nhận ra đó là một khúc tre già, ruột tre đã phân hủy hết, nhưng đốt và cật tre thì vẫn còn nguyên. Mọi người đều kinh ngạc khi biết thông tin về cái cán thuổng đã được báo trước.

Riêng GS Phương thì mừng khôn xiết vì đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này đích thực là mộ em gái ông. Cái cán thuổng (nhà ngoại cảm nói trước đó rằng, khi người chôn xác đào đất bị gãy thuổng đã chôn luôn cán làm dấu) đã bị vùi dưới đất cách đây 50 năm, người đời không ai tạo ra nó và cũng không thể nhìn thấy nó được. Sự chính xác đã đạt đến mức chi tiết.

Sau khi tìm thấy cán thuổng, chỉ gạt vài lớp cát mỏng là phần cốt cô Khang hiện ra. Khi chôn, người ta đã đặt cô nằm nghiêng, người hơi cong, mặt nhìn về hướng nam, đầu về hướng đông, chân về hướng đông nam, trùm lên sọ là một mảng tóc đen, rồi đến đốt xương cổ nhìn rất rõ. Nhưng khi bốc lên thì tóc vụn ra như tro, những đốt xương nguyên vẹn mủn ra như những chiếc bánh quy thấm nước.

Mọi người cũng tìm được 5 chiếc răng. Xem xét kỹ thì đúng là răng trắng (chứ không phải nhuộm đen như phụ nữ thời đó), nhưng do ngâm lâu trong bùn nên ngả sang màu đen xỉn. Còn chiếc còng sắt thì tìm mãi không thấy. GS Phương nhận định, có thể qua nhiều năm trong bùn đất nó đã han gỉ rồi tan vào đất mất rồi.

Sau khi tìm mộ, nhà ngoại cảm Bích Hằng nói với GS Phương: “Lần này đi tìm mộ cô Khang, cháu thương cô quá. Cháu hỏi cô rằng cô chỉ cho cháu móng tay cô ở đâu để cháu tìm thì cô giơ hai bàn tay lên trước mặt cháu, nói: Chúng nó rút hết móng tay của cô rồi còn đâu mà tìm”. GS Phương bàng hoàng kinh ngạc vì điều này chỉ có mình ông biết.

Sau khi cô Khang bị giặc sát hại, Huyện ủy Phù Cừ gửi riêng cho ông một bản báo cáo kể rõ cô Khang bị bắt, bị tra tấn, bị giết hại như thế nào. Trong những cực hình mà địch sử dụng có việc dùng kìm rút hết móng tay, rồi cắm kim vào đó. Chúng còn gí điện, xiên gậy vào người rồi treo lên cành cây mà đấm đá đến chết.

Khi nhận được bản báo cáo đó, ông Phương đã khóc rất nhiều, tuy nhiên, ông giữ kín điều này, không cho ai biết để rồi phải đau lòng. Khi được chị Hằng kể lại điều đó, ông có một niềm tin chắc chắn người nằm dưới mộ đích thực là em gái của ông, không ai khác được.

Công việc thu vét hài cốt xong xuôi thì nắng chiều đã tắt. Mọi người vây quanh gốc cây vải, nơi đặt bàn thờ tạm. Đến nhá nhem tối, gia đình GS Trần Phương mới đưa hài cốt của cô Khang về nhà. Hai ngày sau, lễ truy điệu nữ du kích anh hùng Trần Thị Khang (tên thật là Vũ Thị Kính) đã diễn ra trang trọng tại nghĩa trang liệt sĩ của huyện với sự có mặt của hàng ngàn người.

Khuôn mặt của GS Phương đầy vẻ xúc động và mãn nguyện. Nỗi day dứt sau nửa thế kỷ của ông là lời hứa với mẹ sẽ tìm hài cốt em gái về giờ mới thực hiện được. Tuy nhiên, những bí ẩn của thế giới tâm linh huyễn hoặc sẽ vẫn còn ám ảnh ông mãi mãi, bởi ông là một nhà khoa học, không tìm ra được lời giải cho những hiện tượng kỳ bí này, lòng ông khó có thể nguôi ngoai…

Nhà nghiên cứu, đại tá Đỗ Kiên Cường, phân viện phó Phân viện Vật lý y sinh học, trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự (Bộ Quốc phòng): Các lí do nghi ngờ ngoại cảm:
1. Sự tiến bộ không ngừng là tiêu chí của một khoa học tốt, nhưng môn ngoại tâm lý thì không đạt được một tiến bộ đáng kể nào sau cả trăm năm.
2. Ngoại cảm được định nghĩa một cách khác thường, không phải theo nghĩa nó là cái gì mà theo nghĩa nó không là cái gì!
3. Các tuyên bố về chứng cứ khoa học của ngoại cảm thường bị cách ly khỏi quan điểm thông thường của môn thống kê học.
4. Các nghiên cứu ngoại cảm thường mắc lỗi giản lược trong phương pháp luận.
5. Ngoại cảm không liên quan với bất cứ một lý thuyết khoa học đã được xác lập nào.
6. Tính lặp lại là điều cốt tử của các khoa học thực nghiệm. Ngoại cảm không thỏa mãn tiêu chí này.
7. Ngụy tạo, lừa gạt là bạn đồng hành với ngoại cảm trong suốt tiến trình lịch sử.


Nhờ nhà ngoại cảm, tìm được em trai 60 năm thất lạc

Ông Thật và ông Thà. Năm 1945 hai anh em ông Thật và ông Thà thất lạc nhau trong nạn đói khủng khiếp. 60 năm sau người anh đã tìm lại được người em không phải bằng các phương tiện truyền thông hay do sự tình cờ mà là do… chỉ dẫn của một nhà ngoại cảm.Tổng kết các đề tài của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên.

Họ đã phối hợp với các nhà ngoại cảm tìm được trên 10 ngàn hài cốt liệt sĩ. Ba cơ quan là Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cũng đã phối hợp với nhau thực hiện các đề tài nghiên cứu các nhà ngoại cảm từ hơn 10 năm nay.

Tổng kết các đề tài cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên. Ngoài việc tìm thấy hài cốt thất lạc, các nhà khoa học cũng đã ứng dụng khả năng của các nhà ngoại cảm vào những công việc khác.

Một chuyện gây sửng sốt trong giới khoa học diễn ra gần đây là việc nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện đã tìm được một người còn sống sau 60 năm thất lạc.

Trong căn nhà đơn sơ ở thôn Trung Thịnh (Trường Thịnh, Ứng Hòa, Hà Tây) ông Vũ Đức Thật, 70 tuổi, không nén được xúc động khi kể về hành trình đi tìm người em trai vẫn còn sống sót sau 60 năm thất lạc.

Ấy là năm Ất Dậu 1945, cả nước phải hứng chịu cảnh tang thương đói khát. Dù khi đó mới chưa đầy 9 tuổi, song ký ức về những ngày đói khát vẫn còn hằn in trong ông rõ mồn một. Nạn đói đã cướp đi mạng sống của cha và 2 người trong số 5 anh em nhà ông.

Người cha đã chấp nhận chết đói để ông và mấy anh em có được mẩu củ chuối, mẩu rãi khoai giành giật cuộc sống với tử thần. Để tiếp tục sống, ông Thật và người chị gái là Vũ Thị Quặng (77 tuổi, hiện đang sống ở thôn Họa Đống) phải đi làm thuê, ở đợ mỗi người một phương cho nhà giàu.

Ba tháng sau khi cha mất, trên đường đưa người em út đi tha phương cầu thực, mẹ ông đã qua đời vì không chống lại được cơn đói. Mấy chị em ông Thật cũng mất mẹ và cậu em út từ lúc đó luôn. Khi đó, người em tên Thà của ông mới có 4 tuổi.

Người ta mang xác mẹ ông đi đâu cũng không rõ. Trong thâm tâm ông, cậu em út chắc chết đói ở đâu đó và được người ta đem chôn vào hố chôn tập thể rồi.

Gần đây, khi một người trong làng Trung Thịnh tìm được hài cốt liệt sĩ thất lạc qua các nhà ngoại cảm thuộc sự quản lý của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, đã nhen lên trong ông niềm hy vọng. Ông cũng thử tìm đến cơ quan này để nhờ với hy vọng mong manh.

Được sự hướng dẫn của các nhà khoa học, ông Thật cùng người con trai cả được tiếp xúc với nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trước nhà ngoại cảm, ông Thật trình bày nguyện vọng muốn tìm hài cốt người mẹ và em trai thì cô Nguyện nói với ông: “Cứ tìm xong mẹ đã rồi hãy tính đến em”.

Nhà ngoại cảm thắp nén nhang, rồi như chăm chú nhìn vào khoảng không, cô nói với ông Thật: “Năm 1945, khi mẹ ông dắt theo người em út từ quê ra đến Thanh Trì (Hà Nội), qua ngôi chùa thuộc thôn Triều Khúc, xã Tân Triều thì qua đời do mệt và đói. Người dân qua đường đã chôn cất mẹ ông vào bãi tha ma của làng, nhưng sau này người ta di chuyển bãi tha ma đi để xây dựng khu nhà cao tầng tái định cư. Xương cốt mẹ ông hiện nằm trong khu đất ở của một người có tên chữ cái đầu là C”.

Ông Thật nghe vậy thì thực sự kinh hoàng. Ông chưa nói bất cứ thông tin nào về người mẹ và em trai mình, kể cả các nhà khoa học, vậy mà chị Nguyện nói rất chính xác. Ông cảm tưởng như chị đang nhìn vào màn hình chiếc tivi vô hình đặt trong khoảng không đang phát ra những gì diễn biến tại ngôi chùa làng Triều Khúc cách nay 60 năm.

Sau khi mô tả xong, chị Nguyện lấy giấy bút vẽ lại rất tỉ mỉ sơ đồ nơi có hài cốt của mẹ ông Thật. Cầm tấm sơ đồ khá chi tiết trên tay, lòng ông không khỏi nghi ngại, phấp phỏng: Liệu gia đình có may mắn tìm được hài cốt mẹ mình hay không?

Nhưng rồi, sự việc cứ thế trôi chảy, sau hai ngày tìm kiếm theo sơ đồ và sự hướng dẫn thêm qua điện thoại, ông Thật đã tìm được hài cốt của mẹ mình dù chỉ còn những mẩu nát vụn do khi chôn không có quan tài và đã 60 năm không được sang cát.

Kỳ lạ thay, những thông tin như ngôi mộ nằm dưới gốc cây hồng xiêm, cạnh ngõ, chân nằm dưới tường nhà anh Triệu Văn Cường… đều đúng như chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trong niềm xúc động lẫn vui mừng, ông Thật lại tìm gặp các nhà khoa học với những hy vọng sẽ tìm được… hài cốt em trai mình.

Sau khi trình bày kết quả tìm mộ mẹ mình, ông Thật nhờ chị Nguyện tìm tiếp mộ người em trai như lần trình bày trước. Sau một thoáng chau mày, nhìn vào không gian, chị Nguyện nói với ông Thật: “Không thể tìm được hài cốt em trai ông, vì ông… chưa chết”.

Nghe chị Nguyện nói thế, ông Thật và người con trai cả lặng đi, không nói nên lời. Sau khi trấn tĩnh, ông hỏi lại chị Nguyện rằng ông nghe lời chị chưa rõ: “Cô vừa nói gì thế ạ?”. Chị Nguyện tiếp: “Em trai ông hiện nay vẫn còn sống. Năm 1945, ông ấy đi cùng mẹ, khi bà chết, một người đã bế ông ấy đi theo hướng Cao Bằng – Lạng Sơn”.

Khi nghe được thông tin này, các nhà khoa học lập tức vào cuộc, theo dõi sát sao và ghi nhận lại khả năng “nhìn” xuyên không gian, thời gian để tìm người còn sống của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Nếu khả năng này có thật thì đây sẽ là kỳ tài, các nhà khoa học sẽ phải bỏ nhiều công sức nghiên cứu, theo dõi tiếp.

Tiếp tục nhắm nghiền mắt như trạng thái “xuất hồn”, chị Nguyện đã xác nhận người em trai của ông Thật hiện đang sống ở một vùng đất thuộc thành phố Thái Nguyên. Sau đó, chị Nguyện bật băng ghi âm và nói rằng: Vì người còn sống nên không vẽ sơ đồ mà chỉ cần tả đường đi, rồi cứ theo lời tả mà tìm sẽ thấy.

Cầm cuốn băng về, ông Thật và con cháu nghe đi nghe lại. Thật khó có thể tưởng tượng nổi vì sao chỉ ngồi một chỗ mà nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện lại có thể tả chi tiết đến từng cây cầu, con suối, từng kilômét đường đi. Trong niềm khấp khởi người em còn sống, ông và con cháu sắp xếp lên đường nhanh chóng tìm lại em mình.

Hôm sau, ông Thật và một số người thân lên đường. Lần đi đầu tiên này, ông đi với mục đích chủ yếu là tìm hiểu địa bàn. Từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi theo hướng nhà ngoại cảm chỉ, ông cũng gặp “hai cầu cao và một cái cống nhỏ” có hình dáng, đặc điểm giống như lời mô tả trong băng.

Tuy nhiên, đi thêm một đoạn thì có đến 5 cái cống nhỏ nữa, cái nào cũng có hình thù giống nhau. Ông Thật và các con cháu chia nhau thành nhiều ngả, vào các làng xóm quanh khu vực hỏi han, song không ai biết chút thông tin gì về người em Vũ Văn Thà của ông. Mất phương hướng cộng với việc không liên lạc được với nhà ngoại cảm, bố con ông đành quay về.

Tìm gặp chị Nguyện để báo cáo kết quả của ngày tìm kiếm đầu tiên, ông được chị cho biết rằng ông đã đi sai hướng. Theo nhà ngoại cảm, hướng đúng phải là Thái Nguyên – Bắc Kạn. Vậy là cuộc tìm kiếm lại quay về điểm xuất phát.

Lần này, ông Thật và người con trai cả lên đường từ rất sớm theo đường chính từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi Bắc Kạn. Khi nhận thấy các thông tin về địa hình, địa vật đã khá chính xác, ông cẩn thận liên lạc với chị Nguyện thì được chị chỉ dẫn ngay: “Bác đã đi quá 5km, phải lùi lại rồi rẽ phải vào khu vực gần ga ấy”.

Trong thâm tâm ông nghĩ rằng, mọi chuyển động của bố con ông đều được nhà ngoại cảm đặc biệt kia nhìn thấy. Quay lại khoảng 5km, hai cha con ông rẽ phải theo hướng dẫn thì đến ga Quán Triều. Theo lời nhà ngoại cảm, trên đường đi sẽ gặp một doanh trại bộ đội. Đi tiếp 3km thì vào địa phận xã Cù Vân, thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên.

Lúc ấy đã là giữa trưa, các ngả đường bố con ông đã đi qua hết để tìm kiếm dấu hiệu như nhà ngoại cảm miêu tả, song tin tức về người em trai vẫn bặt vô âm tín. Bao nhiêu hy vọng trong ông đã vơi đi rất nhiều.

Có thể, ông không có duyên tìm được em trai mình dễ dàng như tìm thấy hài cốt mẹ. Nếu người em ông còn sống mà ông lại không tìm được thì những ngày cuối đời ông sống cũng không an lòng.

Buổi chiều, ông Thật tiếp tục gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện để xin thông tin điều chỉnh và trình bày cả những băn khoăn trong lòng thì thật bất ngờ khi được chị hướng dẫn: Vẫn còn một con đường nhỏ bên trái dẫn vào chân núi. Loay hoay mãi rồi bố con ông Thật cũng tìm thấy một con đường nhỏ lẫn vào những tán cây mà bố con ông không để ý.

Đi sâu 1km vào phía chân núi, ông nhận ra một ngôi nhà đúng như lời chị Nguyện mô tả, chỉ khác là bên trái không có cái ao nào. Tim đập thình thịch, ông Thật lò dò bước vào căn nhà đó với bao nhiêu hình dung về khuôn mặt người em trai đã thất lạc từ hơn 60 năm trước.

Tuy nhiên, người chủ nhà đó lại là ông Nguyễn Văn Chắc. Qua trò chuyện được biết ông Chắc là người còn cả bố mẹ và anh em. Vừa thất vọng, vừa không giấu được lòng mình, ông Thật đem câu chuyện về người em trai đã mất tích mấy chục năm kể cho ông Chắc.

Không ngờ, ông Chắc cho biết trong vùng cũng có một người chừng tuổi như thế, được một người ở đây đưa về làm con nuôi từ khi còn nhỏ. Thế nhưng, người đàn ông đó tên là Khương Văn Thông chứ không phải Vũ Văn Thà.

Nhận lời dò hỏi giúp, ông Chắc khuyên hai cha con ông Thật nên quay về đợi tin vì theo ông việc này không chắc chắn lắm, vả lại cũng không thể kết luận ngay được.

Suốt 10 ngày ở quê, ông Thật sống trong thắc thỏm lo âu và hy vọng, song không thấy tin gì báo về. Không có tin của người đàn ông tên Chắc thì coi như hết hy vọng. Đúng dịp đó thì có một chị cùng xóm tên là Cần bảo rằng sắp tới sẽ về xã Cù Vân (Đại Từ, Thái Nguyên) thăm mẹ đẻ. Chị Cần mới làm dâu ở làng ông Thật mấy năm nay.

Ông Thật vội vàng lấy mảnh giấy viết mấy chữ: “Tháng 12/1945, mẹ Trương Thị Vòng có đưa em Vũ Văn Thà đi, sau khi mẹ mất có người đã nhận và đưa em lên Thái Nguyên làm con nuôi…”.

Về xã Cù Vân, chị Cần đưa cho người đàn ông tên Thông mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đó. Đọc những dòng chữ đó, ông Thông rơm rớm nước mắt. Ngày đó ông còn quá nhỏ, không nhớ được điều gì, nhưng khi lớn, trong những buổi sum họp gia đình, cha mẹ nuôi ông thường hay kể rằng, ông bà mua ông bằng một thúng gạo của một người lạ mặt.

Người lạ mặt đó cũng kể rằng họ “nhặt” được ông dưới Hà Nội, khi mẹ ông chết đói. Cha mẹ nuôi ông không có con, đã nhận ông làm con nuôi, đặt tên cho ông là Khương Văn Thông và lấy năm khai sinh là 1945. Nặng ân nghĩa với cha mẹ nuôi, ông Thông coi họ như cha mẹ ruột của mình, hết lòng phụng dưỡng khi sống và hương khói thờ tự khi họ qua đời.

Nhưng tuổi càng cao, nỗi mong ngóng tìm về quê quán, cội nguồn càng xót xa. Ký ức đau thương thời thơ ấu dù lớn thế nào cũng không còn chút gì trong ông. Nhận được lá thư của người đàn ông lạ, nhưng như có linh tính mách bảo, ông Thông lập tức hồi âm với những lời lẽ tha thiết mong sớm được gặp mặt ông Thật.

Ngay sau ngày nhận được thư của ông Thông, hai cha con ông Thật lại lên đường đi Thái Nguyên. Thật kinh ngạc khi cảnh vật nơi ông Thông ở đúng như lời mô tả trong băng ghi âm: “Từ mặt đông bắc trông ra, tay phải là bếp, tay trái là ao. Tiến vào một chút là vườn cây, vườn rau. Có hai nếp nhà và lên nhà phải qua bậc thang”.

Lòng trào dâng xúc động, nhưng ông Thật vẫn có phần e ngại vì hình dạng ông Thông khá khác biệt so với dự đoán của nhà ngoại cảm. Ông Thông cao hơn và khắc khổ hơn chứ không “trẻ hơn và thấp hơn”.

Qua chỉ dẫn, người con ông Thật tìm gặp bà Tiễn (84 tuổi, là con nuôi lớn của bố mẹ ông Thông, thường tắm cho ông Thông khi nhỏ, hiện sống ở làng cạnh), và được bà kể mọi chuyện về thời thơ ấu khổ đau, lưu lạc của ông Thông y như nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện mô tả.

Không còn nghi ngờ gì nữa, anh vừa khóc vừa chạy về với chú ruột của mình. Trong lúc anh con cả của ông Thật đi “điều tra”, ông Thật cũng “kiểm tra” tiếp bằng cách điện thoại về cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện.

Kỳ lạ thay, ông Thật chưa kịp trình bày nỗi băn khoăn, chị Nguyện đã nói ngay: “Ông Thông chính là người em trai bị thất lạc của ông hơn 60 năm trước, ông không phải lăn tăn, điều tra gì nữa”.

Bao nhiêu tình cảm và mong chờ trong những ngày tìm kiếm chợt vỡ òa. Hai anh em ông Thật và ông Thà ôm chầm lấy nhau trong nước mắt chứa chan. Hôm sau, hai anh em về quê. Đón họ là những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi của con cháu, xóm làng.

Sau khi thắp nhang khấn vái bên mộ cha mẹ, trước bàn thờ tổ tiên và họ hàng thân thiết, ông Thông đã được nhận lại tên họ, quê hương, bản quán của mình sau hơn nửa thế kỷ lưu lạc. Cả gia đình ông Thật còn bàng hoàng khi nghe lại đoạn cuối trong cuốn băng ghi âm lời hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện: “Tìm một mà được mười ba”. Ông Thà có cả thảy 13 người con và cháu.

Sau khi tìm được em trai Vũ Văn Thà, ông Thật tiếp tục tìm được mộ chị gái Vũ Thị Quắng ở giữa cánh đồng xã Phương Tú (Ứng Hòa). Bà Quắng bị chết đói năm 1945, khi 11 tuổi và được người ta chôn luôn ngoài cánh đồng.

Đặc biệt, trong một chuyến đi vỏn vẹn một tuần, bằng sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện, bố con ông Thật còn tìm tiếp được 2 liệt sĩ nữa, là anh vợ và em vợ ông Thật. Hài cốt liệt sĩ Vũ Hồng Quân được tìm thấy ở xã Nghĩa Thương (Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) và liệt sĩ Vũ Hồng Quang được tìm thấy giữa nông trường cà phê bạt ngàn thuộc xã Đắk Sắk (Đắk Nông).

Đi tìm lời giải của những nhà ngoại cảm Việt Nam

Bích Hằng và mẹ tại nhà riêng.Hầu hết các nhà ngoại cảm ở nước ta có được khả năng kỳ lạ là do một biến cố trong đời. Ly kỳ nhất phải kể đến câu chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, cô đã có được khả năng phi thường sau một lần bị chó dại cắn suýt chết…Theo ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, ở Việt Nam hiện có gần 100 người có khả năng đặc biệt, trong đó chỉ có hơn chục người có khả năng tìm mộ thực sự xuất sắc. Còn con số lừa bịp để trục lợi, hoặc hoang tưởng mình có khả năng đặc biệt thì phải đến hàng ngàn.

Chính vì thế, ông cũng cảnh báo rằng, tất cả những người chưa được các nhà khoa học cũng như những cơ quan có chức năng thẩm định, đánh giá bằng các đề tài nghiên cứu cụ thể thì không thể tin tưởng được.

Qua các cuộc nghiên cứu, đánh giá, các nhà khoa học tổng kết được 4 con đường dẫn đến khả năng ngoại cảm: Thứ nhất là bẩm sinh, tức sinh ra đã có khả năng ngoại cảm. Thứ hai, sau những trận ốm thập tử nhất sinh bỗng phát hiện ra khả năng này. Thứ ba, các thiền sư tu hành lâu năm, đắc đạo. Thứ tư, do được đào tạo.

Theo ông Khanh, trường hợp trở thành nhà ngoại cảm do bẩm sinh là rất hiếm, do tu hành đắc đạo thì có nhiều, song đối với các nhà tu hành, ngồi một chỗ biết chuyện thiên hạ chỉ là một bậc nhỏ trên con đường đến cõi niết bàn.

Các thiền sư chuyên tâm tu hành, không màng đến thế sự, tiếng tăm, danh phận và rũ bỏ hết việc đời nên họ không bao giờ công bố khả năng của mình. Họ muốn giữ tâm tịnh để tiếp tục tu hành khổ hạnh, do vậy, người đời thường không biết được khả năng của họ.

Người tiêu biểu về khả năng tu hành rồi trở thành nhà ngoại cảm là anh Nguyễn Văn Nhã. Anh Nhã hiện đang sống ở TP Hồ Chí Minh. Anh thường ít khi tiếp xúc, gặp mặt người tìm mộ. Những ai muốn tìm được hài cốt người thân thường gọi điện hỏi anh, anh sẽ chỉ dẫn qua điện thoại.

Anh Nhã làm thế là vì không muốn mang tiếng kiếm tiền từ việc chỉ dẫn người đời đi tìm mộ. Chính vì thế, nhiều gia đình tìm thấy mộ thân nhân qua sự chỉ dẫn của anh, muốn tìm anh hậu tạ nhưng không biết anh ở đâu, hỏi địa chỉ thì anh không cho, thậm chí mang quà đến anh cũng không nhận.

Đã có cả ngàn người tìm được mộ nhờ sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, song vẫn không biết mặt mũi nhà ngoại cảm này như thế nào. Việc có khả năng ngoại cảm do đào tạo bài bản chính là nét độc đáo ở Việt Nam mà các nhà khoa học đang chuyên tâm nghiên cứu, áp dụng.

Đã có một số người sẵn có khả năng đặc biệt, lại được các nhà khoa học rèn luyện nên trở thành nhà ngoại cảm có khả năng tìm mộ cũng như nhiều khả năng có ích khác, tuy nhiên, những người này còn đang trong giai đoạn nghiên cứu nên các nhà khoa học chưa cung cấp thông tin.

Hầu hết các nhà ngoại cảm ở nước ta có được khả năng kỳ lạ là do một biến cố trong đời. Có người bị điện cao thế giật (ông Nguyễn Văn Chiều), có người qua trận sốt hoặc trận ốm thập tử nhất sinh thì trở thành nhà ngoại cảm.

Trong số những người trải qua biến cố thành nhà ngoại cảm thì ly kỳ nhất phải kể đến Phan Thị Bích Hằng. Con đường trở thành nhà ngoại cảm của Bích Hằng vô cùng gian nan, kỳ lạ và nhiều nước mắt.

Phan Thị Bích Hằng sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nghèo thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Năm 1990, khi 17 tuổi, vừa thi đại học về, Hằng cùng một cô bạn gái đang đi trên đường bỗng có một con chó nhảy xổ ra cắn. Hằng bị cắn vào chân trái, cô bạn gái bị cắn vào tay trái.

Cũng như người dân ở các vùng nông thôn, Hằng và cô bạn cảm thấy chuyện bị chó cắn rất bình thường, rồi quên ngay sau đó. Vài ngày sau khi bị chó cắn, Hằng nhận được giấy báo đỗ đại học.

Khoảng một tháng sau, cô bạn đột nhiên không nói được nữa, hàm răng cứng lại. Nghĩ là bị đau răng, Hằng đưa cô bạn đi khám. Bác sĩ nha khoa kiểm tra và khẳng định không phải do đau răng. Hai người lại đèo nhau đến Bệnh viện Quân y 5 Ninh Bình.

Sau khi khám xét, bác sĩ bảo bạn gái của Hằng có triệu chứng của người bị bệnh dại. Tưởng như đất dưới chân sụt xuống, tử thần đã nắm tay mình dắt đi, Hằng nói như người mất hồn: “Đúng như vậy. Cháu và cô bạn đều bị một con chó cắn”. Sau hôm đó, Hằng cũng hôn mê bất tỉnh. Cô bạn thân thì đã qua đời.

Gia đình đưa cô đi chữa trị nhiều nơi, bằng cả Đông y lẫn Tây y, song các bác sĩ, thầy lang đều lắc đầu, bởi bệnh này từ xưa đến nay không ai chữa khỏi. Khi đến nhà một ông thầy lang theo Thiên Chúa giáo, ông xem xét kỹ biểu hiện cơ thể rồi nói một câu an ủi: “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”.

Sau đó, ông bảo người con trai ra nghĩa địa lấy một mảnh ván mà người ta vừa bốc lên hôm trước, rồi bào chế với vài vị thuốc. Để giành giật giữa sự sống và cái chết, gia đình Hằng liền cho cô uống ngay vị thuốc khủng khiếp này.

Sau khi uống thuốc, ông thầy lang bảo với bố mẹ Hằng: Sau 3 tiếng đồng hồ cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, nói sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé. Nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì cháu sống được còn nếu lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa. Tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ có vậy.

Đúng như lời ông thầy lang nói, 9h tối Hằng lên cơn cắn xé điên cuồng, đến 11h đêm mới thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, khi cùng người anh trai của cô bạn gái đã mất ra mộ thắp hương thì đột nhiên Hằng cảm thấy có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hằng liền nói: “Anh đưa nhanh em về, em sắp lên cơn điên rồi”. Từ đấy, Hằng không còn biết gì nữa.

Đến 1h sáng hôm sau, gia đình không còn hy vọng bởi Hằng đã hoàn toàn tắt thở. Bình thường, những người trẻ tuổi như Hằng ở quê được khâm liệm rất nhanh rồi đem chôn, không tổ chức lễ tang, kèn trống.

Thế nhưng, có một ông cụ dạy chữ nho ở làng rất giỏi tử vi vào nhà Hằng, sau một hồi tính toán, ông bảo: “Thứ nhất, chưa qua giờ Thìn không được khâm liệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương”.

Nguồn: http://www.vntruyen.com/showthread.php?t=4133
THUNG DUNG, KHO BÁU
https://hoangkimvietnam.wordpress.com

Chúc xuân

Tết đến nàng xuân tỏa sắc, hương
Tết trao phước lộc tới ngàn phương
Tết mang giàu mạnh về thôn xóm
Tết trải hân hoan khắp phố phường
Tết đón tương lai chan hạnh phúc
Tết tràn hy vọng ngợp yêu thương
Tết dâng hoa thắm mừng Tân Mão
Tết phát khang an thịnh phú cường
Hoa Huyền
 
XUÂN HẠNH PHÚC

Xuân về trời đất ngát sắc hương
Xuân gửi muôn hoa đến bốn phương
Xuân mang vui vẻ vào từng ngõ
Xuân chuyển hân hoan đến mỗi phường
Xuân Mão chúc mừng Xuân phúc lộc
Xuân Mèo chào đón Tết yêu thương
Xuân qua xuân lại tuần hoàn mãi
Xuân đẹp bình an quý phú cường

Hoàng Kim

TẾT TÂN MÃO

Nghị lực

Hoàng  Kim

Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân !

VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Mỗi ngày đi qua
Mỗi tháng đi qua
Mỗi năm đi qua
Thấm thoắt thời gian
Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
Ta lại về đây với mái trường xưa
Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
Càng tự hào làm người lính tiên phong

Nay trở về khi giặc đã quét xong
Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
Ta hiểu những gì ta phải gắng công

Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh.

Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.

NĂM THÁNG Ở TRỜI ÂU

Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng
Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh
Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả
Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư

Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ
Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc
Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức
Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông

Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau
Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ
Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ
Sự nghiệp này trao lại tay con

Biết ơn anh tần tảo sớm hôm
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Bắt ốc, mò cua, bền gan, vững chí
Nhắc nhở thù nhà nợ nước cho em.

Biết ơn mái trường ta đã lớn khôn
Hũ gạo nghĩa tình bạn thầy san sẽ
Những lớp đàn em bi bô tuổi nhỏ
Mang mớ rau, củ sắn giúp thầy

Sống giữa lòng dân những tháng những ngày
Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức
Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức
Nhớ một thời thơ ấu gian nan …

Biết ơn em người bạn gái thủy chung
Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả
Em gánh vác mọi việc nhà vất vả
Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn

Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương
Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó
Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ
Lúa, ngô, sắn, khoai, hoa, qủa dâng đời

VÒNG QUA TÂY BÁN CẦU

Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua

Em đã xa cái tuổi học trò
Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
Bao cuộc đời nhờ học để thành công

Nhớ nghe em những năm tháng không quên
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son

Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
Phải làm gì để trả mối thù sâu.

Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
“Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua

Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
Em bên Người năm tháng lớn khôn lên

Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
Tin có ngày trở lại mái trường yêu

Bao bạn bè của năm tháng không quên
Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Về thăm quê cũng người còn, người mất
Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua

Nay em như chim trời bay cao, bay xa
Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
Những tháng học này là niềm mơ ước
Em cần miệt mài tranh thủ thời gian

Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
Em hãy học dẫu đêm về có mệt
Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!

Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
Những dễ dãi khiến lòng người dao động
Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.

TỰ THẮNG MÌNH LÀ BÀI HỌC ĐẦU TIÊN

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới, em là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !


Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố

Khắc sâu lời nguyền xưa !

Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ CHO CON)

(Dăn con : Cha đã đi hơn nửa cuộc đời, kinh nghiệm lớn nhất là phúc hậu và nghị lực )

Chút Huế cho em

 
Hoàng Kim

Ngan ngát dòng Hương  (1) thoang thoảng thơm  
Đâu rồi chốn cũ bến yêu thương
Sông xanh sáu nhịp cầu mong đợi
Nghiêng một vầng trăng sáng phố phường.

Anh ra cầu Huế đêm trăng sáng
Hằng hà sao mọc giữa dòng sông
Tình anh như nước càng ra biển
Càng chứa đầy em ở giữa lòng

Anh chọn cho em một chút này
Như tình âu yếm một vòng tay
Đây là chút Huế , đây tình nghĩa
Men ngọt chung tình mãi đắm say.

(1) Ảnh chọn từ Tạp chí sông Hương,
bài “Sông Hương, dòng sông lịch sử” của Trương Thị Cúc.

Du thuyền trên sông Hương


Hoàng Kim

Xôn xao sóng nước xôn xao
Mênh mông gió biển ùa vào thuyền thơ
Du thuyền dọc bến sông xưa
Một khoang trời, một trang thơ ngọt ngào

Biết ơn Nội tán họ Đào 
Giúp dân, mở cõi,… lập bao công trình 
Nhớ ai câu hát nghĩa tình
Nước non ngàn dặm nên đành phải đi

Giọng hò sâu nặng tình quê
Để xa nên nhớ để về nên thương
Lên chùa thắp một nén hương
Tơ lòng vương vấn cội nguồn nước non

Nỗi niềm chi ước nguyện con
Để đi ngàn dặm chân son vẫn về
Đinh ninh như một câu thề
Dẫu xa lòng vẫn nhớ về Huế thương.