Phan Huy Chú: để tôi đọc lại

DẠY VÀ HỌC. Phan Huy Chú (1782 – 1840) là danh nhân văn hoá Việt Nam, nhà khoa học bách khoa thư văn sử địa nổi tiếng với tác phẩm lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”. Ông đồng thời cũng là nhà giáo, nhà thơ của triều vua Minh Mạng. Phan Huy Chú (tên khác là Phan Huy Hạo, tên hiệu là Mai Phong), sinh năm Nhâm Dần 1782, quê gốc xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn, Phủ Quốc Oai, nay là làng Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến sĩ Phan Huy Ích. Ông nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ông ngoại là Ngô Thì Sĩ, cha là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngô Thì Nhậm, chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực… Tiến sĩ Phan Huy Ích trong “Thứ nam thực sinh hỉ phú” (bài phú mừng sinh nhật con trai thứ hai Phan Huy Thực) đã viết: “Văn phái dư lan cự cửu nguyên”, nghĩa là: “dòng văn để lại đủ cửu nguyên”. Ông cũng có lời chú trong “Dụ am ngâm lục” rằng: “Phụ thân tôi Phan Huy Cận, thi Hương, thi Hội 2 lần đỗ đầu (lưỡng nguyên). Tôi thi Hương, thi Hội, thi Ứng chế ba lần đều đỗ đầu (tam nguyên). Bác Hy Doãn (Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên (Phan Huy Ôn) em trai thứ 3 của tôi đều đỗ đầu thi Hương. Tất cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là cửu nguyên”. Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của nhà khoa học Phan Huy Chú. Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hoá Việt Nam, với tài danh lỗi lạc về bách khoa thư. Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị, nổi bật nhất là bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” gồm 49 quyển khảo cứu về lịch sử Việt Nam từ lập quốc đến cuối triều Lê.

Trong bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú đã sưu tầm tư liệu, khảo cứu sách vở, đối chiếu sắp xếp, trình bày cô đọng, mạch lạc sinh động, có tầm khái quát cao, chia theo từng loại hiến chương gọi là chí: dư địa chí, nhân vật chí, lễ nghi chí, khoa mục chí, quốc dụng chí, hình luật chí, văn tịch chí, binh chế chí, quan chức chí, bang giao chí. Trong đó: 1) Dư địa chí: Khảo cứu về đất đai, phong thổ và lịch sử địa lý Việt Nam qua các đời; 2) Nhân vật chí: Nói về tiểu sử từ vua chúa, tướng sĩ đến những người trung thần, tiết nghĩa có công với nước; 3) Quan chức chí: Xét về chế độ quan lại ở Việt Nam; 4) Lễ nghi chí: Khảo sát các quy định, thể chế, phẩm phục của vua chúa, quan lại cùng các nghi lễ trong triều đình; 5) Khoa mục chí: Nói về chế độ giáo dục, khoa cử đời xưa; 6) Quốc dụng chí: Viết về chế độ thuế khóa, tài chính qua các triều; 7) Hình luật chí: Xét về pháp luật các đời. 8) Binh chế chí: Khảo về quy chế tổ chức và việc luyện binh qua các đời; 9) Văn tịch chí: Nói về tình hình sách vở nước Việt xưa; 10) Bang giao chí: Khảo về việc giao thiệp, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước qua các đời).

Lê Minh Quốc năm 2009 (5) cho biết:  “Năm 1960, 120 năm sau ngày ông mất, Hội Sử học Việt Nam đã tổ chức dịch tác phẩm bày ra chữ Quốc ngữ, dày đến 1.450 trang, khổ 14,5x20cm và ghi nhận: “Trong kho tàng thư tịch Việt Nam, nếu trước kia có bách khoa toàn thư, thì phải nhận rằng, Lịch triều hiến chương loại chí là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam, là cả một kho tư liệu cần thiết cho công tác nghiên cứu và xây dựng các khoa học xã hội…”. Chúng ta hãy đọc lại một đoạn ngắn trong Lịch triều hiến chương loại chí có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa … Nhà bác học Phan Huy Chú viết: “Ngoài biển phía đông bắc có đảo Hoàng Sa, nhiều núi lớn nhỏ, đến hơn 130 ngọn núi. Từ chỗ núi chính đi ra biển sang các đảo khác ước chừng hoặc một ngày; hoặc vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước chừng 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi. Trong bãi có dòng nước trong suốt đến đáy. Sườn đảo có vô số vỏ yến sào; các thứ chim có đến hàng nghìn vạn con, thấy người vẫn cứ đỗ quanh, không bay tránh. Bên bãi cát, vật lạ rất nhiều, có thứ ốc có vằn gọi là ốc tai voi to như cái chiếu, trong bụng có hột châu to bằng ngón tay cái, nhưng sắc nó đục, không bằng ngọc châu ở trong con trai; vỏ nó đẽo làm bia được, lại có thể nung làm vôi để xây tường. Có thứ ốc gọi là ốc xà cừ, có thể khảm vào các đồ vật; có thứ gọi là ốc hương. Thịt các con trai, con hến đều có thể làm mắm hoặc nấu ăn được. Có thứ đồi mồi rất lớn, gọi là hải ba, mai nó mỏng, có thể ghép làm các đồ vật; trứng nó như đầu ngón tay cái. Lại có thứ gọi là hải sâm, tục gọi con đột đột, nó bơi lội ở bên bãi cát, bắt về, xát vôi qua, rồi bỏ ruột đi phơi khô. Khi nào ăn, lấy nước cua đồng mà ngâm, nấu với tôm và thịt lợn, ngon lắm. Các thuyền buôn khi gặp gió thường nấp vào đảo này. Các đời chúa Nguyễn đã đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng năm cứ đến tháng ba, khi nhận được mệnh lệnh sai đi, phải đem đủ sáu tháng lương thực, chở năm chiếc thuyền nhỏ ra biển, ba ngày ba đêm mới đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ tìm kiếm các thứ; bắt cá ăn, tìm được những thứ của quý của bọn Tàu ô rất nhiều và lấy được hải vật rất nhiều. Đến tháng tám thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (còn gọi cửa Yêu Lục, tức cửa Thuận An) đến thành Phú Xuân đưa nộp”… Báo Tiếng dân (số ra ngày 23/7/1938) cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa “Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại chú của Phan Huy Chú “Hoàng Sa: là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy”. Với các tài liệu ấy, theo cụ: “Trở thành món tài liệu rất quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít”.

Tập tin:Bản đồ Việt Nam năm 1834.jpg

Bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ (tên gốc: 大南一統全圖 hoặc 大南一統全圖) do Phan Huy Chú xuất bản đời Nguyễn vào khoảng năm 1838 (theo Trần Nghĩa, Viện Nghiên cứu Hán Nôm 1990) là một chứng cứ pháp lý quốc  tế về Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam là không thể chối cãi. Chỉ riêng một dẫn liệu về lời văn và bản đồ đã nêu trên đã cho thấy ý nghĩa và tầm vóc đóng góp của Phan Huy Chú cho non sông Việt.

Ngoài tác phẩm lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú còn có các tác phẩm khác như: “Hoàng Việt dư địa chí”, Mai Phong du Tây thành dã lục, “Hoa thiều ngâm lục” (tập thơ đi sứ Tàu), “Bình Định quy trang”, “Dương trình ký kiến”, “Hoa trình ngâm lục”, Lịch đại điển yếu thông luận; “Hải trình chí lược”… hay còn gọi là Dương trình kí kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia); Điều trần tứ sự tấu sở.

Phan Huy Chú là tấm gương lớn về hoạt động học thuật. Ông không được khoa bảng như cha ông, song thực học, thực tài, uyên bác, xuất chúng. Ông thực hiện công việc nghiên cứu bằng lao động khoa học miệt mài, với tâm huyết lớn. “Lịch triều hiến chương loại chí” là công trình học thuật cá nhân đồ sộ với hình thức độc đáo, nội dung lớn lao đã được ông thực hiện trong mười năm (1809 – 1819), chưa kể thời gian đọc sách, ghi chép, sưu tầm trước đó. Đây là “một bộ sách thường đọc của một đời”, là điểm đặc sắc trong lịch sử văn hoá nước nhà.

Phan Huy Chú viết: “Nước Việt ta tiếng khen lễ nghĩa đã hơn nghìn năm, vốn có thư tịch đã từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước đối địch với Trung Hoa, mệnh lệnh từ chương dần dần rõ rệt. Đến Lý, Trần nội trị, văn vật mở mang, về tham định thì có những sách điển chương điều luật, về ngự, chế thì có các thể chiếu sắc thi ca. Trị bình đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi, nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng, sách vở ngày càng nhiều, nếu không trải qua binh lửa mà thành tro tàn… Than ôi! Sách vở các đời đã từng tản mát, sách mất đã khó sưu tầm, sách còn lại nhiều sai lẫn, đằng đẵng ngàn năm, biết theo vào đâu mà khảo xét? Nhưng sự học ở các nhà nho quý ở tìm rộng, có sách vở để làm bằng. Tôi bèn xét tìm sử cũ, tham khảo các nhà…” (Trích quyển XLII Lịch triều hiến chương loại chí). Một thoáng như vậy để thấy tầm suy xét của Phan Huy Chú khi bắt tay vào thực hiện pho sách đồ sộ này.

Phan Huy Chú chuộng thực làm, thực học, không ưa danh hão. Ông đặt trọng tâm cuộc đời vào việc viết sách và dạy học. Với ông “văn minh của loài người đều chứa trong sách vở”. Ông không may mắn về đường quan lộ, 2 lần khoa cử chỉ đạt học vị tú tài, đến tuổi tứ tuần mới nhận chức quan, trôi dạt trong cảnh quan trường thăng giáng, mờ tỏ. Phan Huy Chú bắt đầu làm quan Hàn lâm Biên tu từ năm 1821, khi vua Minh Mạng biết đến tài năng của ông và triệu vào Huế giữ chức này. Ông đã dâng bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” lên vua Minh Mạng, được vua thưởng 30 lạng bạc, 1 áo sa đỏ, 30 cây bút và 30 thỏi mực. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) ông làm “Lang trung bộ Lại”, năm Minh Mạng thứ 6 (1825) được sung vào sứ bộ sang Trung Quốc. Năm 1828 làm Thừa phủ Thừa Thiên. Năm 1829 làm Hiệp trấn Quảng Nam, sau đó bị giáng. Năm 1831 được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc lần 2, khi về bị cách chức. Năm 1832 đi Biên lực ở Giang Lưu Ba (nay là nước Indonesia). Xong nhiệm vụ trở về ông được khôi phục giữ chức Tư vụ bộ Công… Vua Minh Mệnh là người chuộng tài năng nhưng có tính tự phụ và đa nghi. Ông dè dặt với tầng lớp nho sĩ Bắc Hà có quan hệ với triều Tây Sơn, trọng khí tiết và có chính kiến. Phan Huy Chú bởi ấp ủ tấm lòng ưu ái vì dân nước nên năm 1823, khi được thăng chức Lang trung bộ Lại, đã mạnh dạn dâng sớ điều trần bốn việc: bớt thuế, bớt lính; thực hiện chế độ quân điền; bãi bỏ những cuộc hành binh dẹp loạn; nghiêm trị bọn sâu mọt chuyên đục khoét lương dân. Việc dâng sớ điều trần bốn việc của Phan Huy Chú đã bị vua Minh Mệnh quở trách. Ông cũng như nhiều bậc tài trí thời ấy đã không được vua thực sự tin dùng. Từ sau mấy lần bị vua Minh Mệnh đối xử thô bạo, ông trở nên kín đáo, tuy không vội từ quan nhưng không còn hăm hở như buổi đầu. Hơn mười năm làm quan, ông dù có lúc được thăng Hiệp trấn Quảng Nam, hai lần đi sứ, nhưng ông vẫn luôn bị vua trách phạt. Cuối cùng, chán cuộc đời làm quan, Phan Huy Chú vịn cớ đau yếu, xin từ quan về nhà mở trường dạy học ở Thanh Mai thuộc huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) rồi mất tại đó năm Canh Tý 1840, thọ 58 tuổi.

Lăng mộ nhà bác học Phan Huy Chú
(Ba Vì – Hà Nội) Ảnh Nguyễn Văn Chiến (1)

PHAN HUY CHÚ
(1782 – 1840)

Chữ Hán 潘輝注 tự Lâm Khanh
Thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú
Là một danh sĩ triều nhà Nguyễn.

Nhà thờ Phan Huy Chú hiện toạ lạc tại quê nhà Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Đây là di tích Lịch sử – Văn hoá đã được xếp hạng bởi Bộ Văn hoá – Thông tin ngày 24 tháng 11 năm 2000.

Hoàng Kim
Tuyển chọn, Biên soạn
Bài đăng lần 1 năm 2008
soát xét và bổ sung 2012

Tài liệu tham khảo: 1) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Phan Huy Chú; 2) Nguyễn Văn Chiến, 2009, Học vị, học vấn, học thuật Phan Huy Chú, Quê Hương Online; 3) Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng 2000, Nghị quyết số 06-2000/NQ-HĐ, khóa VI, ngày 19-7-2000 về đặt tên một số đường của TP Đà Nẵng trong đó có đường Phan Huy Chú (kèm lược sử); 4) TS. Phan Huy Dục 2008. Phan Huy Chú và văn hoá Việt Nam. An ninh Thủ Đô Online (Phan Huy Chú, thư hoạ hình đầu tiên là trích dẫn theo Phan Huy Dục); 5) Lê Minh Quốc 2009. Nhớ Phan Huy Chú 1782-1840 Nhà bách khoa toàn thư của Việt Nam. Phụ Nữ Online (trang bìa sách Lịch triều Hiến chương loài chi trong bài này đã dẫn theo tài liệu của Lê Minh Quốc).

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Tình hình biển Đông có gì mới ?



Biển Đông và  đường lưỡi  bò
vẫn là  chủ  đề  nóng và động thái còn diễn biến phức tạp. Đây chỉ mới là sự khởi đầu của cuộc chiến pháp lý về chủ quyền trên biển Đông. Phía Trung Quốc đã chuẩn bị dư luận trong nước trên 60 năm (1950- 2011) về đường lưỡi bò “chuỗi ngọc trai của đất mẹ Trung Quốc” và đã  thực hành “lấn dần từng bước”, “đặt trước việc đã rồi”, chọn thời cơ thích hợp đưa “đường lưỡi bò” thành vấn đề đang tranh chấp. Trung Quốc hiện đang hối thúc Việt Nam sớm đồng thuận theo cách “chủ quyền thuộc tôi, gác bỏ tranh chấp, cùng nhau khai thác, lấy tiền đổi đất, đất đổi hòa bình”.  Phía Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa sự thật lịch sử hiển nhiên và hoàn toàn có đủ căn cứ pháp lý; Quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hướng dư luận vào sự ứng xử phù hợp, kiềm chế, không có những hành động tự phát, không tham gia vào những hoạt động không chính thống, đảm bảo nguyên tắc không làm phức tạp thêm tình hình giải quyết tranh chấp. Bản tuyên cáo đặc biệt do một số nhân sĩ, trí thức khởi xướng về việc nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trên Biển Đông ngày 25 tháng 6 hiện có 1164 người tham gia ký tên. Quan điểm của những người  ký tuyên cáo coi việc giải quyết vấn đề biển Đông trong hòa bình thuộc trách nhiệm của Chính phủ nhưng điều đó không có nghĩa người dân không được quyền tiếp tục thể hiện thái độ của mình; Tuyên cáo đề cao ý chí, nguyện vọng và sức mạnh của toàn dân. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy bên cạnh biện pháp chính trị, quân sự và ngoại giao, biện pháp đấu tranh hiệu quả nhất vẫn là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc. Vấn đề biển Đông đòi hỏi sự bản lĩnh và trí tuệ, sáng suốt và kiên trì, thế và lực của toàn dân tộc, sự ủng hộ quốc tế, sự minh bạch thông tin và phổ biến sâu rộng kịp thời cho dân chúng biết các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển Đông.

TIN NỔI BẬT

Lần đầu tiên, một bản phân tích kỹ lưỡng về bức Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (Huu Nguyen). Bài này được đăng trên Đại đoàn kết ngày 20 tháng 7 năm 2011.

Đại đoàn kết : Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011)

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

“Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược “lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh “phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích “sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Bức Công hàm 1958
(Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết “estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”…

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ “nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu “miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

Nhóm PV Biển Đông

KIẾN NGHỊ
VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Hồ Uy Liêm | Nguyễn Trọng Vĩnh | Trần Việt Phương | Hoàng Tụy
Trần Đức Nguyên | Nguyễn Huệ Chi | Nguyễn Trung | Phạm Chi Lan
Chu Hảo | Nguyễn Xuân Diện | Nguyễn Đình Đầu | LM Huỳnh Công Minh
Lê Hiếu Đằng | Tương Lai | Trần Quốc Thuận | Vũ Thành Tư Anh
Lê Mạnh Thát | Nguyên Ngọc | Nguyễn Hữu Châu Phan | Nguyễn Đình An

.Địa chỉ hộp thư tiếp nhận chữ ký
của đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài:

Email: kiennghi1007@gmail.com

Tiến sĩ Vũ Cao Phan, người rất được dư luận coi trọng sau bài trả lời phỏng vấn  của đài Truyền hình Phượng Hoàng Trung Quốc về biển Đông, đã chia sẻ với VnExpress:

Để giải quyết tình hình căng thẳng ở biển Đông, theo ông chúng ta nên có hành động như thế nào?

– Tôi từng nói chúng ta không thể chống con sào xuống Thái Bình Dương để đẩy con thuyền Việt Nam ra xa khỏi Trung Quốc. Hai nước trở thành láng giềng đó là sự ấn định của của tạo hóa, lịch sử, không thể thay đổi được. Chúng ta không có cách nào khác là chấp nhận vị trí địa lý mà mình có, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với nước bạn, có lợi cho hai bên. Vấn đề là chúng ta phải ở tư thế như thế nào, phải xử sự ra sao thì lại là câu chuyện tưởng dễ mà khó. Nhưng tôi là một người lạc quan, tôi rất tin mọi sự sẽ được giải quyết theo hướng tích cực.

Giáo sư Phan Huy Lê:

Những hành động của Trung Quốc đang làm cho tình hình Biển Đông nóng dần lên. Dĩ nhiên Việt Nam phải theo dõi sát sao, xây dựng chiến lược ứng phó lâu dài, đồng thời cần chủ động đối phó kịp thời với từng việc cụ thể. Tôi muốn nêu lên mấy suy nghĩ và đề xuất sau đây:

1. Lập trường bất biến của chúng ta là coi việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, lãnh thổ toàn vẹn của đất nước là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Trên lĩnh vực này, mọi quốc gia – dân tộc đều bình đẳng, không có phân biệt nước lớn – nước nhỏ và càng không có quyền nước lớn áp đặt cho nước nhỏ.

Lịch sử Việt Nam còn ghi lại bao lời tuyên bố vang vọng mãi với non sông đất nước, thấm sâu trong tâm trí các thế hệ con người Việt Nam như lời thề non nước. Đó là lời thơ thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thời chống Tống thế kỷ XI, lệnh của hoàng đế Lê Thánh Tông “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại vứt bỏ… Kẻ nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di” năm 1473, lời kêu gọi “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ (đánh cho biết rằng nước Nam anh hùng và có chủ)” của Quang Trung Nguyễn Huệ trong chống Thanh thế kỷ XVIII, lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”.

Lịch sử Việt Nam cũng chứng tỏ rằng Việt Nam tuy là nước nhỏ (so với nhiều nước xâm lược, nhỏ hơn nhiều lần về lãnh thổ, dân số, tiềm lực kinh tế, quân sự) nhưng vẫn có thể tạo nên sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đó là chiến lược giữ nước “dĩ đoạn chế trường (lấy ngắn chế dài)” theo Trần Quốc Tuấn, “dĩ nhược chế cường, dĩ quá địch chúng (lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều)”, “dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chi nhân nhi địch cường bạo (lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo)” theo lời Nguyễn Trãi.

2. Hết sức coi trọng việc giữ gìn hòa bình, ổn định cho đất nước và khu vực, biết tự kiềm chế, kiên trì sử dụng các giải pháp ngoại giao, chính trị để giải quyết các vụ đụng độ, tranh chấp trên Biển Đông bằng công pháp quốc tế và bằng con đường đấu tranh ngoại giao, bằng đàm phán giữa các nước có quyền lợi liên quan. Cần triển khai mạnh mẽ, chủ động mặt trận đấu tranh ngoại giao, nhất là ngoại giao pháp lý, trên các diễn đàn và trong các tổ chức khu vực và quốc tế, làm cho dư luận thế giới thấy rõ lẽ phải và chính nghĩa của Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng ASEAN và các nước trên thế giới. Trong cuộc đấu tranh này, không phải sức mạnh quân sự mà là sức mạnh của lẽ phải, của chính nghĩa và của trí tuệ có sức thuyết phục cao nhất.

3. Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia không chỉ là trách nhiệm của Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhân dân, của mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Vì vậy cần thông tin kịp thời, công khai mọi diễn biến tình hình Biển Đông cho nhân dân biết để tạo nên sự đồng thuận và tham gia của toàn dân, của cả dân tộc Việt Nam.

4. Lịch sử hàng nghìn năm bảo vệ đất nước cho thấy sức mạnh tiềm tàng lớn lao nhất của dân tộc Việt Nam là sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi khi Tổ quốc lâm nguy hay bị đe dọa, mọi người Việt Nam đều sẵn sàng gạt bỏ lợi ích riêng, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết để chung sức bảo vệ đất nước. Chúng ta không bao giờ được quên những tổng kết của tổ tiên như lời Trần Quốc Tuấn, muốn giữ nước phải lo “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức”, “chúng chí thành thành (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước)”, lời Nguyễn Trãi “sức dân như nước”, “thuyền bị lật mới thấy dân như nước”…

Sức mạnh quốc phòng rất quan trọng, sự liên kết quốc tế rất cần thiết nhưng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết dân tộc luôn luôn là nền tảng giữ vai trò định đoạt. Vì vậy, nâng cao hiểu biết của nhân dân về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa trên Biển Đông và cơ sở lịch sử – pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là rất cần thiết và quan trọng. Rất tiếc, cho đến nay, những ấn phẩm nghiên cứu và phổ cập về những vấn đề này còn quá ít, chưa đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của nhân dân.

Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đang khẩn trương hoàn chỉnh bản thảo để xuất bản một công trình nghiên cứu về chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng nằm trong mong muốn đóng góp một phần giải quyết nhu cầu này.

 (Theo Tạp chí Xưa và Nay số 381, tháng 6/2011)

Hoàng Kim
(Bài tổng hợp)

Tin liên quan:
‘Tôi bất ngờ về hiệu ứng buổi phỏng vấn của đài Phượng Hoàng’
Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới
Học giả Việt Nam trả lời truyền hình TQ về Biển Đông
YÊU CẦU BỘ NGOẠI GIAO CUNG CẤP THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC
DANH SÁCH 1.164 NGƯỜI KÝ TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT
BẢN TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT DO GIỚI NHÂN SĨ TRÍ THỨC KHỞI XƯỚNG

Nói chuyện chuyên đề về chủ quyền biển đảo
Tư liệu biển Đông và đường lưỡi bò

Phản đối tạp chí khoa học của Ý in bản đồ sai sư thât về biển đảo Viêt Nam

Mr. Do  Blog: “Bức thư của người VN gửi tạp chí khoa học tại Ý (đã đăng bản đồ lưỡi bò của Trung Quốc). Anh Nguyễn Hùng, ở Úc, người chuyển cho tôi bức thư này, cũng là một trong những người đã thông báo cho tôi vụ Hội Địa lý Quốc gia Mỹ in bản đồ sai sự thật về Hoàng Sa trước đây.Nhiệt tâm của những người như anh Hùng khiến tôi vừa thán phục (vừa tự thấy xấu hổ vì không thường xuyên “phụ họa” được với họ).”——————25 June, 2011Professor Raffaello Cossu
IMAGE (Environmental Engineering) Department
Università degli Studi di Padova
Lungargine Rovetta 8, 35127Padova, Italy
Email: wmeditorinchief@gmail.comDear Professor Cossu:We are a group of Vietnamese academics and professionals currently living in various parts of the world. We would like to join Professors Van Tuan Nguyen (Garvan Institute of Medical Research, Australia) and Tuan Quang Pham (The University of New South Wales, Australia) in expressing our concern, if not outrage, about the bias shown in the map of China (i.e. deletion of neighboring countries such as Vietnam, Malaysia, Indonesia, The Philippines…and inclusion of the disputed waters and islands to the east of Vietnam) contained in the paper “Municipal solid waste source-separated collection in China: A comparative analysis” authored by Tai et al. recently appearing in your journal .In the interest of scientific integrity as well as the true facts of the East Sea of South East Asia, we would appreciate your putting out a correction as requested by the Professors or at least printing their letters in full so the readers of your journal can make up their minds about the bias in the paper written by Tai et al.Yours sincerely,

Khoa Ba Ngo, M.B.A., USA
Mai Tran, Ph.D, , Australia
Tuyen Gia Do, B.E. Elect, Saudi Arabia
Phuong Minh Tran, M. Tech, Australia
Long Viet Bui, B.E. Mech, Vietnam
Ba Tuoc Tran, M. Com., Vietnam
Long Quang Le, B.E. Mech, New Zealand
Xa Van Nguyen, M.E. Civil, USA
Tu Van Nguyen, M.Com. (Econ.), New Zealand
Lap Q Nguyen, Ph.D.,USA
Han Huu Huynh, B.S. Tech (Food), USA
Tuyet Van Duong, M.Com. (Econ.), USA
Danh Cong Bien, M.E. Elect, New Zealand
Triet Minh Ngo, P.E. Civil, USA
Kho Huu Nguyen, Ph.D.(Chem Eng), P.E. (USA)
Nham Truong, Ph.D, Australia
Ngoc Bich Tran, Ph.D. (Econ.), CFP, E.A. (USA)
Hong Ba Le, M.Sc, Australia
Huynh Tung Ngo, B, Agr.Sc, Australia
Hung The Vu, B.S. Comp., USA
Ngon Danh Nguyen, P.E. Civil, USA
Mai Chi Thi Nguyen, B.Com., USA
Khanh Tuoc Trinh, Ph.D., New Zealand
Bich Lien Nguyen, B.A. Edu., USA
Mui Dinh, B.A. Edu., Australia
Tuan Sy Bui. Ph.D, MBA, MSCIS, USA
Duong Thanh Tran, B.A.Edu, New Zealand
Chau Bich Bui, M.A., USA
Nga Thien Nguyen, B.S. Comp., New Zealand
Thi Nhung Do, B.A. Edu., USA
The Hung Nguyen, Ph.D., Uni of Danang, Vietnam
Hung Nguyen, B.E. Chem., Australia
Tara T. VanToai, Ph.D., USA
Norman N. VanToai, Ph.D., USA
Ngoc Diep Vuong, M.Com.,Economics, USA
Thanh Truc Vuong, B.A.Edu, USA
Long Phan Pham, P.E, Viet Ecology Foundation, USA
Quyet Vu, M.A.Edu., USA
Marie Dung Burns, M.A. Edu., New Zealand
Lieu Thu Le, B.E. Chem, New Zealand
Ngoc Bich Becker, MTA. CANDMED, Germany
Van Hao Nguyen, M.E. Civil, Australia
Thi Tinh Tien Le, M.Com, Economics, Australia
Mong Trinh Thi Nguyen, B.A, New Zealand
Thomas Hung Ngoc Dang, M.B.A, CPEng, Australia Khanh
Nguyen-Do, Ph.D., Australia
Kim Ngoc Truong, B.E. Chem, USA

Disguised and fabricated map of China without the countries of South East Asia

True regional map of South East Asia

Cập nhật:

Phía tạp chí Ý đã trả lời:

Dear Hung Nguyen,
Thank you for your e-mail. The Editor in Chief is evaluating the matter as a priority and will publish a note on the next issue of our Journal.

Best regards,

Managing Editorial Office
Waste Management

Nguôn:  Mr. Do

Thế lưỡng nan của ASEAN ở Biển Đông
ASEAN’s dilemma in South China Sea

Michael Richardson
Straits Times (Singapore) July 4, 2011
http://www.viet-studies.info/kinhte/ASEAN_Dilemma_trans.htm

Các đòi hỏi xung khắc nhau của Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á về việc kiểm soát các khu vực rộng lớn của biển Đông có thủy sản có giá trị và dầu mỏ, khí thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản dưới đáy biển, đã thu hút Mỹ và các cường quốc bên ngoài khác vào cuộc tranh chấp này.

Nước nào trong các nước có can dự vào trường tranh đua này sẽ thắng thế, và bằng cách nào? Hay các tay chơi chính sẽ rụt lại sự đối đầu để tiếp tục nền hòa bình và thương mại đã thúc đẩy châu Á đi đầu trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu ?

Quyền lợi được hay thua là rất cao. Mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ là một trụ cột của sự ổn định châu Á. Tranh chấp Biển Đông là một phép thử các quan hệ trong tương lai giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Sự gắn kết của ASEAN cũng đang được thử nghiệm trong cuộc đấu đá giữa siêu cường quân sự hàng đầu và gã khổng lồ khu vực đang trỗi dậy.

Trung Quốc đang phô trương sức mạnh cơ bắp của họ bởi vì nước này nói rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi trên các nhóm đảo chính ở Biển Đông và quyền tài phán trên các vùng biển xung quanh, và rằng các quốc gia Đông Nam Á dẫn đầu là Việt Nam và Philippines đang ăn cắp một lượng lớn khí đốt, dầu và thuỷ sản mà đúng lẽ là thuộc về Trung Quốc.

Bắc Kinh đã cảnh báo rằng việc này phải chấm dứt. Chủ nghĩa dân tộc trong số các bên tranh chấp chủ yếu đang cháy bùng cảm xúc.

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào ngày 23 tháng 6 xác định lại vị thế chính thức của Washington sau cuộc hội đàm với đối tác Albert del Rosario của Philippines . Ông này nói với bà rằng kể từ tháng Hai, đã có tới 9 lần “xâm nhập gây hấn” của Trung Quốc trong vùng biển thuộc biển Đông do Philippines tuyên bố chủ quyền. Việt Nam cũng đã có các khiếu nại tương tự.

Bà Clinton nói rằng Washington không đứng về bên nào trong các tranh chấp biên giới biển và lãnh hải ở biển Đông nhưng phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực để thúc đẩy những đòi hỏi chủ quyền của bất kì bên nào.

Bà nói thêm rằng Hoa Kì có “một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp quốc tế, và giao thương hợp pháp không bị cản trở, trong vùng biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN nhưng với các quốc gia hàng hải khác trong cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn “.

Đó là lập trường chính thức Mỹ. Tuy nhiên, cựu phụ tá ngoại trưởng Nicholas Burns gần đây đã đưa ra một cái nhìn bộc trực trong cách đánh giá thực sự của Washington khi Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào chuẩn bị trao đòn xeo quyền lực cho một thế hệ lãnh đạo trẻ hơn năm tới.

Ông Burns nói rằng Washington thấy sự rối rắm không phải từ thế hệ ông Hồ Cẩm Đào mà từ thế hệ dân tộc chủ nghĩa hơn sẽ sớm lên nắm quyền lực.

“Tôi nghĩ có một sự đồng thuận rằng Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm năng …và rằng nếu Trung Quốc sẽ trỗi dậy với việc hiện đại hóa quân sự lớn một cách bất thường, và thấy có tình trạng hỗn loạn ở châu Á và một sự giảm sút hoặc rút lui của Mỹ và … một hệ thống liên minh tàn lụi, thì Trung Quốc có thể bị cám dỗ để tìm kiếm sự thống trị quân sự.”

Ông Burns nói rằng ông không có ý nói về sự thống trị thực dân, nhưng “khả năng đe dọa, thứ hành vi của Trung Quốc mà chúng ta đã thấy ở ASEAN (Diễn đàn khu vực về an ninh) mùa hè năm ngoái trên biển Động, một nước Trung Quốc đi quá trớn.”

Mặt khác, nếu Mỹ “có thể giữ nguyên vị thế của mình ở châu Á, vẫn duy trì sức mạnh quân sự chủ yếu của nó thông qua hệ thống đồng minh của mình, và cũng bao gồm luôn Ấn Độ trong một mối quan hệ đối tác chiến lược mới ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, có nhiều khả năng hơn nữa khi Trung Quốc trỗi dậy giữa một biển dân chủ đầy các cường quốc dân chủ, thì sẽ là hoà bình “.

Sự đồng thuận Washington do ông Burns nêu ra là nhất quán với các hành động của Mỹ. Trong tháng vừa qua, chính quyền Obama đã tái khẳng định một cách rõ ràng cam kết của mình với các đồng minh chủ chốt châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines. Họ cũng đã làm điều tương tự với Australia.

Bộ Tư lệnhThái Bình Dương Mỹ đã tổ chức các cưộc tập trận huấn luyện trong vùng biển Đông với Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Trong khi đó, Washington đã củng cố quan hệ chiến lược với Việt Nam.

Mỹ cũng đã đồng ý với Nhật Bản đưa Ấn Độ vào một cuộc đối thoại an ninh ba bên, trên cơ sở Ấn Độ có các lợi ích thương mại và hải quân đang tăng lên tại các tuyến đường biển bận rộn xuyên qua biển Đông và New Delhi quan tâm đến cách hành xử của Trung Quốc ở đây như là một dấu hiệu về cách mà Bắc Kinh sẽ hành xử như thế nào trong tranh chấp biên giới Trung-Ấn.

Tuy nhiên, có dấu hiệu đáng lo ngại rằng Trung Quốc tin rằng các động thái này của Mỹ, đồng minh và bạn bè chỉ là trò tháu cáy và rằng cán cân quyền lực trong vùng biển Đông sẽ nghiêng về phía Trung Quốc mà không gì ngăn cản được vì giao thương và các liên kết khác đang lớn mạnh của Trung Quốc với Đông Nam Á mang thêm đòn xeo.

Các quốc gia ASEAN có thể phải đối mặt với một sự lựa chọn đau đớn. Họ sẽ xuống nước nhân nhượng, và do đó làm táo tợn hơn một Trung Quốc ngày càng có thế lực, là một phần không thể tách rời của châu Á, hay họ sẽ dựa vào các đảm bảo ngoại giao và trợ giúp chiến lược tương đối yếu và bị phân tâm từ các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ và Nhật Bản.

NGỌC PHƯƠNG NAM

Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả

NGỌC PHƯƠNG NAM. “Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại. Tiếu đàm nhân tại bích vân trung” thơ Nguyễn Trãi: Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung. Tiếu và đàm chuyện gì ? Cười và nói việc nào? Cười vì: “Lưu Cung tham công nên thất bại. Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong… Cố chấp ý mình gieo vạ cho bao người khác. Tham công một lúc mua cười cho cả thế gian” Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo năm 1428 đến nay đã 583 năm và những tiếu đàm của Người vẫn lồng lộng trên non thiêng Yên Tử ca ngợi đức Nhân Tông, kế sách một chữ “Đồng” đối kế với Đông. Nhắn kẻ viết Thập sách (Mười lý do nên đánh Việt Nam (?), có bài học lịch sử “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, Mười điều không nên

BÀI THƠ THẦN CỦA NGUYỄN TRÃI TRÊN ĐỈNH YÊN TỬ

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (2)

(2) Nguyễn Trãi ” Đề Yên Tử sơn, Hoa Yên tự ”
trong ”Nguyễn Trãi toàn tập”

Nguyễn Trãi “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên tự ” trong Kiều Văn
– Thơ văn Nguyễn Trãi , NXB TH Đồng Nai 2009, tr. 148

Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử

Nguyễn Trãi

Trên dải Hoa Sơn, đỉnh tuyệt vời
Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
Người giữa mây xanh vẳng nói cười
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Dải châu treo đá rũ lưng trời
Nhân Tông còn miếu thời nao đó
Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời

Bản dịch thơ: Khương Hữu Dụng

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (3)

(3) Thơ ”Yên Tử” Nguyễn Trãi, dịch thơ: Hoàng Kim
Bình minh trên Yên Tử, ảnh chụp lúc 5:00 của HK )
Điều khó của dịch và hoạ thơ Nguyễn Trãi là dùng được các chữ phong, hồng
trung, không, đồng
ở các chữ cuối câu 1,2,4,6,8 theo niêm luật thơ Đường
và dùng ngôn ngữ hiện tại để chuyển tải rõ ý một bài thơ cách đây gần 600 năm.
Kính đề nghị mọi người cùng tham gia dịch và hoạ áng thơ thiên cổ hùng văn này.

Từ Nhân Tông bảo tháp lên chùa Đồng Yên Tử (đỉnh xa mờ ở phía sau ảnh,
đi bộ trong đêm từ 12 giờ khuya đến rạng sáng thì mới tới nơi cao nhất.
Nguyễn Trãi viết: “Non thiêng Yên Tử chòm cao nhất. Trời mới canh năm đã
sáng trưng”. Như vậy, Ức Trai đã đi bộ giờ Tý (canh ba) như đức Nhân Tông
hoặc Người phải lên núi từ hôm trước mới viết được tuyệt phẩm này.

LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông (1)
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong<
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng”
(2)

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (3)

*

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

LỜI NHẮN KẺ VIẾT THẬP SÁCH
Mười lý do nên đánh Việt Nam (?)

“Cố chấp ý mình gieo vạ cho bao người khác.
Tham công một lúc mua cười cho cả thế gian

Xuyên tạc sự thật và hăm dọa dân tộc Việt Nam (Báo Sài Gòn Giải phóng 23.6 trả lời Báo Hoàn Cầu Trung Quốc)

BẢN TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT DO GIỚI NHÂN SĨ TRÍ THỨC KHỞI XƯỚNG trang chính tại đây

TRÍ THỨC VÀ NHÀ BÁO ĐỨNG TRƯỚC VẬN MỆNH CỦA ĐẤT NƯỚC (TS Tô Văn Trường tại Nguyễn Xuân Diện Blog)

Học giả TQ chính thức công nhận đường lưỡi bò không rõ ràng Giáo sư Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam (DAV) Báo Giáo dục Việt Nam

Biển Đông – Mỹ – Trung Quốc: Countering Beijing in the South China Sea (Policy Review June 1, 11

Từ biển Giao Chỉ đến “đường lưỡi bò” (Báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh)

Thư ngỏ của GS Phạm Duy Hiển gửi Thủ tướng Naoto Kan

Trung Quốc vi phạm luật quốc tế (Báo Người Lao động 22/6/2011)

Tổ quốc nhìn từ những kiệt tác

Xem tiếp

NGỌC PHƯƠNG NAM, THUNG DUNG

Tư liệu Biển Đông và đường lưỡi bò


NGỌC PHƯƠNG NAM. Tranh chấp Biển Đông và cuộc chiến pháp lý về đường lưỡi bò chắc chắn không thể giải quyết trong năm, mười năm mà sẽ trãi nhiều thế hệ. Điều này tùy thuộc chứng cứ pháp lý, thái độ dân chúng, công luận quốc tế, tương quan thế và lực và mối liên hệ của các bên. Trung Quốc với ưu thế nước lớn, cường quốc kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự đang trỗi dậy rất mạnh mẽ cả thế và lực, chắc chắn sẽ không bao giờ chịu rời bỏ ý đồ chiến lược Trung Nam Hải “Chuyển dịch trung tâm địa chính trị thế giới sang châu Á – Thái Bình Dương, cũng cố bảy đại quân khu giữ vững Trung Hoa, phát triển tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự theo trục Nam – Nam, mở rộng tầm ảnh hưởng vùng lưỡi bò đặc quyền kinh tế biển và thâm nhập xuống vùng Đông Nam Á”. Việt Nam có lợi thế pháp lý Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, ở vào tình thế lùi là mất chủ quyền, dân đồng lòng khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, đã có bài học lịch sử toàn dân toàn diện trường kỳ,dám đánh và biết đánh thắng mọi thế lực hùng mạnh, biết ngoại giao khôn khéo chuyển thế nước nhỏ thành thế đa phương. Nước Mỹ và Nga đều có lợi ích an ninh quan trọng ở khu vực này để duy trì cân bằng thế chiến lược nên không dễ khoanh tay đúng nhìn. Chính vì vậy Biển Đông hiện tại và sắp tới còn xao động mạnh, diễn biến khó lường, cần chăm chú theo dõi. “Phép thử chiến lược” đưa khó khăn ra ngoài, lấn dần từng bước, đặt trước việc đã rồi, thương thảo trên thế mạnh đã làm lợi cho Việt Nam chuyển sang thế đa phương và hợp tác với nhiều nước, quốc tế hóa vấn đề biển Đông.

Trước đây đức Phật đã nói với các vua chúa về lẽ thịnh suy: “Ta xem những nơi các vua chúa và các nhà cầm quyền như là những hạt bụi. Ta xem những kho vàng và châu ngọc như những viên gạch và những viên sỏi. Ta nhìn những tấm áo tốt đẹp nhất như những mãnh vải rách tả tơi. Ta thấy vô số thế giới của vũ trụ này như những hạt trái cây và chiếc hồ lớn nhất như một ao nhỏ; những lời phán quyết về đúng và sai như là sự uốn mình nhảy múa của một con rồng; sự tranh giành và thịnh suy chỉ là cái chớp mắt; và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài thơ lạ viết tại đèo Ngang lúc Bác mới năm tuổi “Biển là ao lớn/ Thuyền là con bò/ Bò ăn gió no/ Lội trên mặt nước/ Em nhìn thấy trước/ Anh trông thấy sau/ Ta lớn mau mau/ Vượt qua ao lớn”, Biển Đông là ao lớn. Thuyền là con bò. Muốn vượt qua ao lớn không thể không lớn nhanh lên…

(Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc trên biển đông. Nguồn: Học giả TQ chính thức công nhận đường lưỡi bò không rõ ràng giáo dục.net.vn)

Cuộc chiến pháp lý về đưỡng lưỡi bò (Cow tongue shape) được phản ánh rõ tại Hội nghị an ninh biển Đông và bài viết Nguyễn Hồng Thao -Yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc dưới góc độ luật pháp quốc tế cùng loạt bài trên Nghiên cứu biển Đông và Ý kiến của GS Nguyễn Kim Đan ở Pháp viết cho GS Cossu, Tổng biên tập tạp chí “Waste Management” đề nghị loại bỏ ít nhất hình về bản đồ (xem hình kèm theo) trong báo cáo của một tác giả người Trung Quốc mới đây đăng ở một tạp chí chuyên ngành khoa học Dưới đây là nội dung email bức thư của GS Nguyễn Kim Đan (theo đúng thư chuyển tiếp do anh Nguyễn Thanh Bình gửi về từ Nhật).

—– Mail transféré —–
De : Dan Nguyen
À : “wmeditorinchief@gmail.com” ; “raffaello.cossu@unipd.it”
Envoyé le : Lundi 20 Juin 2011 11h41
Objet : Claim on the article, Volume 31, Issue 8, Pages 1671-1904, published in “Waste Management”
Prof. Raffaello Cossu
Editor in Chief of
Journal “Waste Management”

Dear Editor,
In the article, entitled: “Municipal solid waste source-separated collection in China: A comparative analysis”, by Jun Tai, Weiqian Zhang, Yue Che and Di Feng, published in Volume 31, Issue 8, Pages 1671-1904 (August 2011) of your journal, Figure 2 presents a geographical map of China, including the “Cow Tongue” claimed by China as Chinese territorial Sea in the East Sea (South-China Sea). The Chinese “Cow Tongue” covers the Paracel and Spratly Islands, which are belong to Vietnam.

China could not provide persuasive evidence about its practice of sovereignty in this whole vast sea area, continuously and peacefully for a long time. Despite China’s claims of ownership over the Spratly Islands, it never physically occupied this archipelago until 1988 when its navy clashed with Vietnam’s navy and took control of 6 of the features for the first time in history. China continued to take over more features in subsequent clashes with Vietnam in 1992 and the Philippines in 1995. (see http://www.presscenter.org.vn/en/?option=com_content&task=view&id=5290&Itemid=30 for more details).

Naturally, the East Sea is a combination of economic regimes among Southeast Asia countries and between them with the southern lands of China. The East Sea is the common home of the regional countries and collects the common concerns of the countries inside and outside the region. Therefore, the issues of the East Sea should be resolved equally with respect to international laws and each country’s sovereignty and interests.

Figure 2 of this article will cause a serious diplomatic and political problem between the ASEAN countries and China. Therefore, I hereby request your re-consideration in order to remove at least the figure in this article.

I am looking forward to hearing from you soon.

Dan Nguyen, PhD-HDR
Professor
Université PARIS-EST
Laboratory Saint-Venant for Hydraulics
Joint-Research Unit of CETMEF, EDF R&D and ENPC
6 Quai Wattier
78400 Chatou, France

Phone: +33 1 30 87 79 57, FAX: +33 1 30 87 80 86
Mobile Phone: +33 6 10 91 62 32
Web page: http://www.saint-venant-lab.fr/prod/

Những bài báo liên quan về biển Đông và đưỡng lưỡi bò (Cow tongue shape)

“Đường lưỡi bò” phi lý
Châu bản thời vua Bảo Đại khắc ghi chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam (19/07/2011)

Nếu như các tờ châu bản thời vua Minh Mệnh và Thiệu Trị được viết bằng chữ Hán thì các tờ châu bản thời vua Bảo Đại được viết bằng chữ Quốc ngữ. Và một điều khác biệt nữa là trong thời điểm Nam triều thuộc Pháp bảo hộ này, có châu bản lại được sao dịch thêm một bản ngôn ngữ Pháp.

Bản sao châu bản sang tiếng Pháp
do Thương tá Trần Đình Tùng soạn

Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu tới bạn đọc hai châu bản do nhà nghiên cứu Phan Thuận An công bố sau khi phát hiện ra nhiều tài liệu chữ Hán, Việt, Pháp… trong tủ sách tại phủ thờ công chúa Ngọc Sơn (con vua Đồng Khánh, em vua Khải Định và là cô ruột vua Bảo Đại) tọa lạc tại 31 Nguyễn Chí Thanh (TP. Huế). Sở dĩ nhà nghiên cứu Phan Thuận An tìm được và đứng ra công bố tài liệu châu bản quý vì công chúa Ngọc Sơn chính là bà nội của vợ ông. Trung quân đô thống, phò mã Nguyễn Hữu Tiến (chồng của công chúa Ngọc Sơn) – một vị quan có vai vế trong triều đình đã đưa về nhà cất giữ một tập châu bản với khoảng 70 văn bản có chữ phê, chữ ký của vua Bảo Đại. Trong quá trình nghiên cứu tập châu bản này, ông Phan Thuận An đã phát hiện hai châu bản có liên quan trực tiếp đến việc thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa. Hiện tại, hai châu bản này đã được bàn giao cho Bộ Ngoại giao để lưu trữ.

Hai tờ châu bản đều có kích cỡ giấy 21,5x31cm và đều có niên đại năm Bảo Đại thứ 13 (1939). Đây là loại giấy tốt, chuyên dùng ở Ngự tiền Văn phòng dưới thời vua Bảo Đại. Bởi vậy, ở góc phía trên bên trái của mỗi tờ, ngoài hai hàng chữ Pháp “Palais Impérial” (Hoàng Cung) và “Cabinet Civil de Sa Majesté” (Ngự tiền Văn phòng), tờ nào cũng có in dòng chữ Hán “Ngự tiền Văn phòng dụng tiên”. “Tiên” là loại giấy có vẽ hình đẹp làm nền, ngày xưa thường dùng để viết thư, cũng thường gọi là giấy “hoa tiên”.

Tờ châu bản thứ nhất đề ngày 15-12 năm Bảo Đại thứ 13, tức là ngày 3-2-1939. Châu bản này không giống các châu bản khác ở chỗ có đến 2 văn bản khác nhau (một bản bằng tiếng Việt, một bản bằng tiếng Pháp), nhưng liên quan mật thiết với nhau. Văn bản tiếng Việt được soạn trước, có nội dung như sau: “Huế, ngày 15 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13 (3-2-1939). Ngự tiền Văn phòng kính tâu: Nay Văn phòng chúng tôi có tiếp tờ thơ số 68-sp ngày 2 – 2 -1939 của Quí Khâm sứ Đại thần Thương tá xin thưởng Tứ hạng Long tinh cho M. Fontan, Louis, Garde principal de 1ère classe de la Garde Indigène, vừa tạ thế ở nhà thương Huế; và nhờ chúng tôi tâu lên Hoàng đế ban chuẩn. Phí ngân cấp chỉ và thiệt chất huy chương ấy sẽ do ngân sách Trung Kỳ đài thọ. Vậy chúng tôi xin sao nguyên thơ của Quí Khâm sứ Đại thần, phụng đính theo phiến nầy, kính tâu lên Hoàng đế tài định, hậu chỉ lục tuân. Nay kính tâu! Tổng lý Đại thần (ký tên: Phạm Quỳnh).
Châu bản ngày 3-2-1939

Văn bản tiếng Việt này đã được soạn lại thành một bản ngôn ngữ chữ Pháp để gửi tới Tòa Khâm sứ Trung Kỳ đóng ở bờ nam sông Hương. Toàn văn bản dịch như sau: “Huế, ngày 2-2-1939 – Khâm sứ Trung Kỳ- Huân chương Bắc đẩu Bội tinh – Kính gửi Ngài Tổng lý Ngự tiền Văn phòng, Huế. Thưa Ngài, Tôi kính nhờ Ngài vui lòng tâu lên Đức Kim thượng xin phê chuẩn cho một đề nghị là truy tặng Long tinh của Nam triều cho ông Louis Fontan là Chánh Cai đội hạng nhất của ngạch lính Khố xanh, vừa tạ thế vào ngày hôm nay tại Nhà thương lớn ở Huế sau khi bị bệnh sốt “typhus” mà ông đã nhiễm phải trong thời gian công tác ở đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp lời đề nghị này được chấp nhận, tôi sẽ rất biết ơn Ngài nếu Ngài gửi thật gấp bằng khen và huy chương ấy cho tôi qua trương mục ngân sách địa phương. Ký tên: Graffeuil. Sao y nguyên bản. Thương tá Ngự tiền Văn phòng – Ký tên: Trần Đình Tùng”.

Văn bản chữ Việt và văn bản chữ Pháp của châu bản thứ nhất này có thể hiểu như sau: Vào ngày 2-2-1939, Khâm sứ Trung kỳ Graffeuil gửi cho Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh một văn thư đề nghị tâu xin Hoàng đế Bảo Đại truy tặng huy chương Long tinh của Nam triều cho ông Louis Fontan, người vừa qua đời trong ngày hôm ấy. Trước đó, ông này giữ chức vụ Chánh Cai đội hạng nhất của đội lính Khố xanh trú đóng tại đảo Hoàng Sa. Trong thời gian ra công tác tại đây ông đã bị nhiễm phải một loại bệnh sốt rét rất nguy hiểm và chết tại Nhà thương lớn ở Huế. Sau khi nhận được văn thư này, Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh giao cho quan chức dưới quyền trực tiếp của mình là Thương tá Trần Đình Tùng trách nhiệm sao y nguyên văn một bản để đính kèm vào tờ phiến đệ trình lên nhà vua. Ngày 3-2-1939, nghĩa là chỉ 1 hôm sau, tờ phiến và bản sao văn thư ấy được Ngự tiền Văn phòng dâng lên vua Bảo Đại. Trong tờ phiến, ông Tổng lý tuy không nhắc lại nguyên nhân cái chết của ông Fontan (vì đã có nói rõ ở văn thư đính kèm rồi), nhưng đề nghị ban thưởng “Tứ hạng Long tinh” cho viên chức người Pháp ấy. Đây là thái độ của triều Nguyễn coi trọng công lao của những người thuộc chính quyền Bảo hộ có công phòng thủ đảo Hoàng Sa. Đọc xong tờ phiến và văn thư đính kèm, vua Bảo Đại chấp nhận ngay những lời đề nghị và đã ngự phê hai chữ “Chuẩn y” và ký tắt hai chữ “BĐ” (Bảo Đại) bằng viết chì màu đỏ”.
Châu bản ngày 15-2-1939 có chữ châu phê của vua Bảo Đại
Châu bản thứ hai cách châu bản thứ nhất kể trên ít ngày. Nội dung châu bản ghi: “Huế, ngày 27 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 13. (15 Février 1939). Ngự tiền Văn phòng kính tâu: Nay Văn phòng chúng tôi có tiếp thơ số 177s-sp, ngày 10 tháng 2 năm 1939 của quí Khâm sứ Đại thần thương rằng ngạch binh thanh khố Trung Kỳ có nhiều công lao trong việc dẹp yên các miền man di dấy loạn và lập đồn phòng thủ ở đảo Hoàng Sa, nghĩ nên thưởng Ngũ hạng Long tinh cho hiệu kỳ ngạch ấy và nhờ chúng tôi tâu lên Hoàng đế ban chuẩn. Phí ngân cấp chỉ và thiệt chất huy chương ấy sẽ do ngân sách Trung Kỳ đài thọ. Chúng tôi có phụng nghĩ dạng bản dụ ngữ ban chuẩn huy chương ấy cho ngạch binh thanh khố Trung Kỳ, kính tâu lên Hoàng đế tài định, như mông du doản, hậu chỉ lục tuân. Nay kính tâu. Tổng lý đại thần, Thần: (ký tên: Trần Đình Tùng)”. Bên lề trái của văn bản, vua Bảo Đại có phê chữ “Chuẩn” và ký tắt hai chữ “BĐ”. Vì cách nay đã gần trăm năm nên ngôn ngữ có phần thay đổi. Nội dung có thể hiểu như sau: Ngày 10-2-1939, Tòa Khâm sứ Trung kỳ có đề nghị Nam triều nên thưởng huy chương Long tinh hạng 5 cho đơn vị lính khố xanh ở Trung Kỳ, do có công… lập đồn phòng thủ ở đảo Hoàng Sa. Đến ngày 15-2-1939, Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Trần Đình Tùng dâng lên Hoàng đế Bảo Đại tờ “tấu” xin nhà vua duyệt y. Chi phí về thưởng cấp huy chương do Tòa khâm sứ Trung Kỳ đài thọ. Qua hai châu bản này, chúng ta thấy trong khoảng thời gian ngắn (cách nhau hơn ngày), đã có tới hai châu bản liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa. Mặc dù thời điểm đó, Nam triều đang thuộc sự bảo hộ của Pháp nhưng những người lính đi nghĩa vụ ở Hoàng Sa về đều được trọng thưởng. Thậm chí khi những người Pháp làm suất đội hay chỉ đơn thuần là lính Hoàng Sa mà mất đi thì cũng được xét truy tặng.

Điều này chứng tỏ vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam dù đang lâm vào thế yếu vẫn tìm mọi cách để khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong hải giới của Việt Nam. Và kể cả người đề nghị cũng như người đồng ý tặng thưởng đều đánh giá cao việc đồn trú ở quần đảo Hoàng Sa. Từ hai châu bản này, chứng tỏ cho đến trước một tháng quân Nhật tuyên bố đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa (31-3-1939), thì quần đảo Hoàng Sa vẫn thuộc chủ quyền và quyền kiểm soát liên tục của Việt Nam.

Nhóm PV Biển Đông
“Đường lưỡi bò” phi lý
“Đường lưỡi bò” phi lý
Vài nét địa lý tự nhiên thuộc vùng biển Việt Nam (21/06/2011)
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, giữ vị trí chiến lược về địa – chính trị và địa – kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài hơn 3.260 km trải dài từ Bắc tới Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, đảo quốc trên thế giới. Từ lâu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã là của người Việt. Lịch sử các triều đại cùng hoạt động liên tục của người Việt hàng trăm năm trước đến nay trên hai quần đảo này cũng như theo tập quán và luật pháp quốc tế là những cơ sở để khẳng định điều đó.
Cột mốc chủ quyền trên đảo Trường Sa giữa Biển Đông Việt Nam

Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.

Biển Đông là vùng biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau Địa Trung Hải), chiếm khoảng ¼ lưu lượng tàu hoạt động trên các vùng biển toàn cầu. Là tuyến hàng hải huyết mạch mang tính chiến lược của nhiều nước trên thế giới và khu vực, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Âu, Trung Đông với châu Á và giữa các nước châu Á với nhau. Cùng với đất liền, vùng biển nước ta là một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, là ngư trường giàu có nuôi sống hàng triệu ngư dân và gia đình từ bao đời qua, là một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động, là nơi hấp dẫn của các nhà đầu tư và thị trường thế giới.

Bên cạnh nhiều đảo lớn nhỏ khác, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc về lãnh thổ Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15o45’00”Bắc – 17ođộ15’00”Bắc và kinh độ 111o00’00”Đông – 113o00’00”Đông trên vùng biển có diện tích khoảng 30.000km2, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi – Việt Nam) khoảng 120 hải lý. Đoạn biển từ Quảng Trị chạy tới Quảng Ngãi đối mặt với quần đảo Hoàng Sa luôn hứng gió mùa Tây Nam hay Đông Bắc nên thường có nhiều thuyền bị hư hại khi ngang qua đây vào mùa này. Các vua chúa Việt Nam thời xưa hay chu cấp cho các tàu thuyền bị nạn về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp nạn. Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới và xác lập chủ quyền của mình. Quần đảo Hoàng Sa chia làm hai nhóm An Vĩnh và Trăng Khuyết (hay còn gọi là Lưỡi Liềm). An Vĩnh nguyên là tên một xã thuộc Quảng Ngãi, theo Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10: “Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát… chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu. Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi…”.

Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, phía Nam quần đảo Hoàng Sa, cách Cam Ranh (Khánh Hoà – Việt Nam) 243 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 585 hải lý và đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2, từ vĩ độ 6o00’00” Bắc – 12o00’00” Bắc và kinh độ 111o00’00” Đông – 117o00’00” Đông. Diện tích phần nổi của đảo khoảng 3km2, chia làm 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên). Với vị trí giữa Biền Đông, quần đảo Trường Sa có lợi thế về dịch vụ hàng hải, hậu cần nghề cá trong khu vực, đồng thời cũng là một địa chỉ du lịch hấp dẫn.
Bản đồ Biển Đông Việt Nam có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Điều kiện thiên nhiên trên thực tế đã gắn liền với những hoạt động xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo các nhà nghiên cứu, nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600m-700m thì Hoàng Sa sẽ dính vào Việt Nam như một khối thịt liền và cách Trung Quốc bằng một vùng biển sâu (Krempf, Giám đốc Hải học Viện Đông Dương, khảo sát năm 1925). Các sinh vật trên các đảo và dưới biển thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như rùa, đời mồi, vít, đồn đột, ốc tai voi, ốc hương đều tương tự như các đảo ven biển Việt Nam như cù lao Ré. Các khảo sát từ thập niên 40 của thế kỷ XX cũng cho thấy các thú vật sống trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là các loài đã gặp ở Việt Nam, không có nhiều liên hệ với sinh vật ở Trung Quốc. Các khảo sát về thảo mộc cũng có kết quả tương tự, hầu hết thảo mộc ở hai quần đảo này đều du nhập từ đất liền của Việt Nam như cây mù u, cây bàng có nhiều ở cù lao Ré. Các sách sử của thời Nguyễn cũng chép rõ, theo lệnh vua Minh Mạng binh lính Việt Nam đã trồng nhiều cây cối trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để ngày sau cây cối cao to giúp người đi biển nhận biết mà tránh mắc cạn. Biển Đông cũng như Việt Nam nằm trong khu vực mà các nhà sinh vật học gọi là Wallacca, là vùng đất sinh sống của các loài động vật Á Đông mà Trung Hoa nằm ngoài vùng này. Tại Biển Đông không giống như Thái Bình Dương, có dòng hải lưu chảy thay đổi theo chiều gió mùa. Thiên nhiên đã tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa đất liền của Việt Nam với các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa. Chính nhu cầu tránh bão hoặc bị nạn rồi theo dòng hải lưu, theo chiều gió tấp vào đất liền Việt Nam của các thương thuyền nước ngoài như đã trình bày ở trên nên người Việt Nam từ lâu đã biết tới Hoàng Sa và Trường Sa và sẵn lòng cứu giúp những người bị nạn. Điều đó chứng tỏ hoạt động xác lập chủ quyền và thực thi chủ quyền trên thực tế của người Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức tự nhiên từ bao đời qua.

Nhóm PV Biển Đông

Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò (Daniel Schaeffer) BIỂN ĐẢO VIỆT NAM.com
Tư liệu về biển đảo Việt Nam Hãy dành thời gian
Trường Sa, Hoàng Sa có bao nhiêu biển và thềm lục địa? (CNM dẫn theo Thời đại mới)
Từ Hội thảo về an ninh biển Đông, thượng nghị sĩ Mỹ John McCain lên án:
Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc là vô căn cứ
* Nhật – Mỹ kêu gọi Trung Quốc cần hành động có trách nhiệm (Báo Tuổi Trè)
Một “đường lưỡi bò” vô căn cứ (Báo Tuổi Trẻ)
Đường lưỡi bò: Trung Quốc “gậy ông đập lưng ông” (Báo VNN)
Ba lợi thế của Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông (VNN)
Nếu Việt Nam và Trung Quốc ngừng buôn bán (RFA)
Trung Quốc thua về học thuật biển Đông và chiến lược ti toe (blog Culangcat)
Sức mạnh quân sự và chiến lược vĩ đại của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Các tranh chấp lãnh hải và tác động đối với chiến lược biển: Một góc nhìn lịch sử Bruce A. Elleman Giáo sư Trường Cao đẳng Hải quân Mỹ (Thời đại mới)
Trường Sa Hoàng Sa lãnh thổ Việt Nam (Đặc khảo về Hoàng Sa Trường Sa: Tập san Sử Địa số 29 Sài Gòn quý 1. 1975, tài liệu 350 trang do Nguyễn Xuân Diện đánh máy, bổ sung tiếng Hoa,đưa blog và chép về đây)
Trung quốc và các tranh chấp vùng biển nam Trung Hoa Mark J. Valencia
Lê Hoàng-Bauvinal chuyển ngữ Nguồn: Hãy dành thời gian
Trung Quốc và An ninh Năng lượng dài hạn ở châu Á Dr. Evan A. Feigenbaum Nhóm chuyển ngữ Bauvinal.info.free.fr
Tranh chấp hàng hải và hợp tác năng lượng tại biển Nam Trung Hoa
Trung Quốc đẩy mạnh xuống phía Nam trong chính sách ngoại giao năng lượng Michael Richardson Nguyễn Phương Nga chuyển ngữ
Tư liệu biển đảo Việt Nam

Phát hiện thêm nhiều bài báo quốc tế của tác giả người Trung Quốc có sử dụng bản đồ Trung Quốc có hình lưỡi bò

2011/6/23 Nguyễn Thanh 「ビンーグエンータン」Bình

Kính gởi quí thầy cô,
Như em đã thông tin trong lá thư vừa rồi, Trước hàng loạt thư kiến nghị của các nhà khoa học Việt Nam về một bài báo tháng 4/2011 của nhóm tác giả Trung Quốc sử dụng bản đồ đường lưỡi bò, Ban Biên tập Tạp chí khoa học quốc tế Quản lý chất thải cho biết sẽ cho đăng một đính chính trong số tạp chí tới, khẳng định bản đồ Trung Quốc sử dụng trong bài báo nói trên chứa đựng thông tin sai lệch. (Trích từ Vietnam.net: http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/26702/tap-chi-quoc-te-se-cai-chinh-ve-ban-do–duong-luoi-bo-.html).
với nội dung như sau:
“… The Editor in Chief is evaluating the matter as a priority and will publish a note on the next issue of our Journal, stating that the map of China published in the article contained incorrect information… bản dịch: “… Tổng biên tập đang ưu tiên xem xét việc này và sẽ cho đăng tải trong số tới của tờ báo nói rõ bản đồ Trung Quốc được đăng tải trong bài báo là một thông tin không chính xác…”. (Nguồn: Baomoi.com http://www.baomoi.com/Hoan-nghenh-gioi-KHVN-da-canh-giac-hanh-dong-kip-thoi/79/6484677.epi).

Không chỉ riêng các nhà khoa học ở Việt Nam, nhiều học giả quốc tế cũng phản bác các lập luận của Trung Quốc về “cơ sở lịch sử” của đường lưỡi bò, trong Hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông đang diễn ra tại Washington, Mỹ. Thông tin thêm tham khảo tại: http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2011/06/hoc-gia-quoc-te-bac-bo-duong-luoi-bo-cua-trung-quoc/
Nay em xin tiếp tục forward cho quí thầy cô thông tin mới nhất về việc phát hiện thêm nhiều bài báo quốc tế của tác giả người Trung Quốc có sử dụng bản đồ Trung Quốc có hình lưỡi bò. Thông tin này được cung cấp bởi TS. Bùi Quang Hiển (Québec-Canada). Ông đã tổng hợp về việc phát hiện nhiều nhà khoa học Trung Quốc đã lập bản đồ quốc gia họ với “đường lưỡi bò” chiếm hầu hết Biển Đông và công bố trên các tạp chí quốc tế cách đây đã 30 năm.
Mặc dù trong các công bố khoa học này, họ chỉ đưa “hình lưỡi bò” 1 cách “lập lờ”, họ không đưa bất cứ chú thích cụ thể nào về U-line trong bản đồ là đường gì, nhưng ảnh hưởng của nó đến cộng đồng quốc tế sẽ là rất lớn vì các tạp chí này đều là các tạp chí uy tín thế giới đăng trên ScienceDirect, Springer, …

From: hien bui
To: Groupe GCMM
Cc: buiquanghien@mail.com
Sent: Wed, June 22, 2011 4:54:57 PM
Subject: [Groupe-GCMM] Phát hiện thêm nhiều bài báo quốc tế của tác giả người Trung Quốc có sử dụng bản đồ Trung Quốc có hình lưỡi bò [1 Attachment]

[Attachment(s) from hien bui included below]

Chào các anh chị em,

Qua quá trình tìm hiểu mình đã phát hiện ra có thêm nhiều bài báo của các tác giả người Trung Quốc được đăng trên các tạp trí khoa học quốc tế của hai nhà xuất bản khoa học lớn là Elsevier và Springer. Các bạn có thể xem danh sách các bài báo và bản đồ hình lưỡi bò mà mình tìm được trong file dính kèm thư này.

Những bài báo này đã được đăng tại các tờ báo như :

– Journal of Human Evolution (1981)
– Tectonophysics (1999)
– Land Use Policy (2010)
– GEOSCIENCE FRONTIERS (2011)
– Climatic Change (2006, 2008)
– J. Geogr. Sci. (2009, 2010)
– Earch Sciences (2010, 2011)
– Agricultural Water Management (2008)

Như những gì mình tìm thấy thì bản đồ TQ có đường chữ U đã được người TQ sử dụng vào các bài báo khoa học cách đây 30 năm chứ không phải là vừa sử dụng năm nay như phát hiện của anh Trần Ngọc Tiến Dũng (bài báo cũ nhất mà mình tìm được:“On the geographical distribution of primates in China”, Yong-Zu Zhang, Sung Wang, Guo-Qiang Quan, Journal of Human Evolution (1981), 10, 215-226). Điều đó chứng tỏ người Trung Quốc đã có ý đồ chiếm toàn bộ Biển Đông từ lâu.

Hôm nay mình đã viết thư và gửi thư về BBT của các tờ báo nói trên để yêu cầu chỉnh sửa các thông tin sai lệch của các bài báo này. Mình đang đợi câu trả lời của họ. Điều đáng chú ý là một số tờ báo như Earch Sciences và tờ GEOSCIENCE FRONTIERS là tờ báo của Trung Quốc. Mình cũng đã viết thư và yêu cầu chỉnh sửa, nếu họ không trả lời mình sẽ gửi thư đặt vấn đề lên nhà xuất bản Elsevier và Springer.

Mình chắc chắn là còn nhiều bài báo nữa của các tác giả người Trung Quốc có sử dụng bản đồ có thêm hình lưỡi bò mà mình chưa tìm thấy. Mong mọi người để ý và nếu phát hiện ra bài nào thì gửi thư kiến nghị lên BBT của các bài báo.

Chắc chắn sắp tới có thể sẽ có thêm nhiều tờ báo sẽ xuất bản với bản đồ này (có thể có những bài đang chuẩn bị gửi, có bài đang đọc duyệt, và có bài đã vừa được chấp nhận để đăng…). Mình nghĩ điều mà các nhóm khoa học như là GCMM có thể làm được bây giờ là viết thư trực tiếp lên Elsevier và Springer và các nhà xuất bản khác nữa để đặt vấn đề và yêu cầu khuyến cáo BBT của các tờ báo là : Khi các tác giả gửi bài báo, yêu cầu họ phải kiểm tra các hình vẽ trước khi gửi, và họ không được sử dụng các đường địa lý mà vi phạm luật pháp quốc tế.

Thân ái,

Québec-Canada

—– Forwarded Message —-
From: Quang Hien Bui
To: “omichael@princeton.edu” ; “gyohe@wesleyan.edu”
Cc: “bqhien2004@yahoo.com”
Sent: Wed, June 22, 2011 10:17:49 AM
Subject: Comments on two papers published in Journal of Climatic Change

Dear Prof. Michael Oppenheimer and Prof. Gary Yohe,

I would like to contact with you to announce some unclear and incorrect information given in two papers published in Journal of Climatic Change:

– “The 1920s drought recorded by tree rings and historical documents in the semi-arid and arid areas of northern china”, Eryuan Liang, Xiaohong Liu, Yujiang Yuan, Ningsheng Qin, Xuiqi Fang, Lei Huang, Haifeng Zhu, Lily Wang and Xuemei Shao, Climatic Change (2006) 79: 403–432

– “Carbon storage in the grasslands of China based on field measurements of above- and below-ground biomass”, Jiangwen Fan, Huaping Zhong, Warwick Harris, Guirui Yu, Shaoqiang Wang, Zhongmin Hu, Yanzhen Yue, Climatic Change (2008) 86:375–396

In Figure 6 (page 418) of the first paper (Eryuan Liang et al. 2006), the authors used the dashed line below the China map but the authors did not explain what does it mean? Also in Figure 1 (page 381) of the second paper (Jiangwen Fan et al., 2008), the authors used the dashed line in China map without any special indication.

To the author’s best knowledge, this dashed line is so-called China’s U-shape line claim which has been opposed by the international community. Because it violated the international sea law UNCLO 1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea), in which China has already signed. The UNCLO allowed the coastal countries to enable extending 200 nautical miles (about 400km) for the Exclusive Economic Zone (EEZ). See the Figures indicated later; it is not possible that the length of the dashed line be more 2000km from the China Hainan Island. Note also that some inhabitable islands in the interior of the dashed line have maximum extension of 12 nautical miles after the UNCLO and some islands are actually occupied by other countries (no China).

In my views, the presented Figures imply incorrect and inaccurate information. Also the U-shape line must be removed from China map because it was in conflict with international law and it violated the sovereignty of the other countries. I would like that the editor contacts with the corresponding authors to correct these Figures in the next issue of your Journal.

Sincerely yours,

Dr. Ing. Quang-Hien BUI

Office1:
National Research Council Canada – Aluminium Technologies Centre
501, boul de l’Université Est, Chicoutimi, QC, Canada G7H 8C3
Phone:+1-418-545-5545 –poste 5397
E-mail: QuangHien.Bui@imi.cnrc-nrc.gc.ca

Office2:
Centre de recherche sur l’aluminium – REGAL
Faculté des sciences et de génie
Pavillon Adrien-Pouliot
1065 avenue de la Médecine
Université Laval

Québec, QC, Canada, G1V 0A6
E-mail: quang-hien.bui.1@ulaval.ca
Téléphone : + 1 418-656-2131 -poste 12238

Học giả TQ chính thức công nhận đường lưỡi bò không rõ ràng

Thứ hai, 27 Tháng 6 2011 10:15

(GDVN) – Vừa đặt chân đến sân bay Nội bài lúc 23h ngày 26/6 sau chuyến bay dài gần 20 giờ từ Mỹ về, Giáo sư Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam (DAV), đã dành cho Phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam cuộc phỏng vấn nóng ngay tại sân bay, về diễn biến xung quanh hội nghị an ninh biển Đông vừa diễn ra ở thủ đô Washington, Mỹ.

Tin liên quan:

Thông tin báo chí chung Việt Nam và Trung Quốc về Biển Đông
Tướng bắt giữ Dương Văn Minh nói về chiêu bài của Trung Quốc
Việt Nam, ASEAN phản đối Trung Quốc vi phạm chủ quyền biển Đông
Đoàn kết ASEAN trước âm mưu “chia để trị” của Trung Quốc
Quảng Ngãi: Một tháng, 5 tàu cá bị tàu Trung Quốc thu tài sản
Tàu Trung Quốc khoác áo dân sự đi gây hấn tại biển Đông
Trung Quốc ồ ạt gom nông sản Việt: Coi chừng nông dân bị lừa
Ngư dân bị tàu Trung Quốc rượt đuổi
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị VN gửi thư tới Hội hữu nghị Trung Quốc

Ngày 20 -21/6, Hội thảo về An ninh biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế(CSIS) của Mỹ tổ chức quy tụ nhiều quan chức, chuyên gia hàng đầu của Mỹ và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Giáo sư Đặng Đình Quý và 2 cộng sự: Tiến sĩ Trần Trường Thủy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu biển Đông thuộc DAV và luật gia Nguyễn Duy Chiến, thành viên Trung tâm Nghiên cứu biển Đông, đã tham dự Hội nghị quan trọng này.

Nhiều điều “lần đầu tiên được lên tiếng chính thức”

GS Quý cho biết: Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế của Mỹ mỗi năm tổ chức gần 2000 sự kiện lớn nhỏ. Nhưng năm nay là lần đầu tiên tổ chức hội thảo quốc tế về an ninh hàng hải biển Đông.

Trong 2 ngày 20 và 21/6, hội thảo tập trung vào 4 vấn đề chính: đánh giá quyền lợi và vị trí của các bên tại biển Đông, cập nhật những diễn biến gần đây ở biển Đông, đánh giá hiệu quả của các cơ cấu và cơ chế an ninh biển hiện thời tại biển Đông, đề xuất chính sách tăng cường an ninh trong khu vực.

Điểm đáng chú ý là, hội thảo diễn ra trước Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) trong tháng 7 và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) vào tháng 10 và trong bối cảnh có mối quan tâm lớn về an ninh trên biển Đông. Trước diễn biến gần đây, Hội thảo đã mời được những nghiên cứu viên hàng đầu trên thế giới về biển Đông.

PV: Giáo sư đánh giá gì về hiệu quả thiết thực của cuộc hội thảo trong vấn đề biển Đông hiện nay?

GS Đặng Đình Quý: Hội thảo này như một tấm gương về chính sách, nếu anh làm đúng, làm tốt, tuân thủ luật pháp quốc tế thì được học giả quốc tế khen trước dư luận thế giới. Còn nếu anh làm không tốt, trái luật pháp quốc tế thì bị lên án, phê phán dưới góc độ khoa học, đặt nghi vấn về động cơ chính sách…

Do được tổ chức trong thời điểm đặc biệt này nên các học giả kiến nghị rất nhiều giải pháp đến các nước liên quan dù lớn, dù nhỏ, các nước trong và ngoài ASEAN. Điểm đặc biệt đáng chú ý của hội thảo là những đánh giá lần đầu tiên được chính các học giả Trung Quốc lên tiếng và tiếng nói mạnh mẽ từ những chính trị gia cấp cao của Hoa Kỳ tại cuộc hội thảo.

Học giả Trung Quốc: Các nước khác ăn cắp dầu của Trung Quốc

PV: Học giả Trung Quốc nói sao về yêu sách “đường lưỡi bò” và vấn đề tranh chấp Biển Đông hiện nay, thưa ông?

GS Đặng Định Quý: Đây là một điểm rất mới tại Hội thảo này. Lần đầu tiên, một học giả người Trung Quốc thừa nhận một cách chính thức “Đường lưỡi bò” là sự thừa kế của lịch sử và thừa nhận, đường lưỡi bò này tọa độ không rõ ràng và đó là vấn đề cần phải thương thảo. Điều này được các học giả quốc tế đánh giá tốt vì cơ sở của “Đường lưỡi bò” được nhìn nhận là rất yếu.

Trước chất vấn của gần như tất cả các học giả quốc tế về tính pháp lý của Yêu sách đường lưỡi bò, ông Tô Hạo, một trong hai học giả Trung Quốc có mặt tại Hội thảo đã trả lời, đường lưỡi bò là thừa kế từ giai đoạn Tưởng Giới Thạch cầm quyền. Cụ thể, xuất phát từ “sáng kiến” của một người Trung Quốc vào năm 1930; đến năm 1947 Tưởng Giới Thạch vẽ thành bản đồ nhưng chỉ lưu hành trong nước mà chưa có tuyên bố quốc tế.

Năm 1949, Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời lại in thành sách và dạy cho trẻ con. Từ đó, “Đường lưỡi bò” thấm vào các thế hệ người Trung Quốc, coi đó là lãnh thổ của người Trung Quốc và đang bị các nước khác gặm nhấm, cướp mất.

Cũng cần phải nói thêm, trong một số cuộc hội thảo trước đây, có những học giả người Trung Quốc nói rằng, các nước khác ăn cắp dầu của Trung Quốc. Trung Quốc đã rất kiềm chế chưa khai thác một giọt dầu nào ở biển Đông trong khi đó nhiều nước Đông Nam Á đang triệt để khai thác dầu và Việt Nam là nước ăn cắp dầu nhiều nhất.

Học giả Trung Quốc thứ 2 tham gia hội thảo này vừa đặt câu hỏi và cũng vừa trả lời: “Nếu bây giờ mà Chính phủ Trung Quốc bỏ đàm phán song phương, chấp nhận đàm phán đa phương về vấn đề chủ quyền biển Đông thì rất khó bởi lẽ chủ quyền tính theo “đường lưỡi bò” đã ăn sâu vào tiềm thức người Trung Quốc. Bây giờ biết làm thế nào?”. Dĩ nhiên, vị học giả này cũng nói thêm rằng đó chỉ là suy nghĩ của cá nhân ông ta.

Trong buổi hội thảo, không chỉ phía Việt Nam mà các học giả quốc tế đều có cùng quan điểm, như ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc Ủy ban An ninh chính trị thuộc ban Thư ký ASEAN nhấn mạnh, biển Đông bản chất là rất phức tạp, tính chất tranh chấp khác nhau giữa các bên liên quan.

Chỗ thì trang chấp song phương, chỗ thì đa phương. Do đó giải pháp giải quyết tranh chấp cũng phải phù hợp, chỗ nào song phương thì giải quyết song phương, nơi nào đa phương thì phải giải quyết đa phương, chỗ nào quốc tế thì quốc tế giải quyết.

Do đó, cứ nhất nhất giải quyết song phương theo như Trung Quốc đề nghị là vô lý. Chính học giả Trung Quốc kia cũng nhận thức được điều đó.(còn nữa)

Phúc Hưng (Nguồn: Giáo dục Việt Nam 27/6/2011)


Hòn đá to
Hòn đá nặng
Nhiều người nhắc
Nhắc lên đặng

Biển là ao lớn, thuyền là con bò ” thơ Hồ Chí Minh Xem tiếp