Giống sắn triển vọng tại Việt Nam

CÂY LƯƠNG THỰC . Ngoài những giống sắn phổ biến ở Việt Nam KM94, KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26, KM98-7,… nhu cầu sản xuất cấp thiết đòi hỏi những giống sắn mới triển vọng có năng suất sắn lát khô, năng suất sắn củ tươi và năng suất bột cao, ít sâu bệnh, thích hợp sinh thái. Dưới đây là bộ giống  sắn triển vọng đang được khảo nghiệm ở giai đoạn 2011-2013  của Chương trình Sắn Việt Nam: SVN5 (KM419), SVN1 (KM414), SVN2 (KM397), SVN7 (HL2004-28= KM444), SVN 3 (KM325),  SVN4 (KM228 = KM440B), SVN6 (DT3 = KM331?), HB60* (KM390), SVN9 (OMR35-8 = KM297), SVN10 (CM4955-7), SVN8 (HL2004-32 = KM333), SVN11 (NTB-1 = SC6?) , HL23* (KM318). Các giống sắn triển vọng đã được xếp theo thứ tự ưu tiên tuyển chọn cho vùng sinh thái Đông Nam Bộ.

Giống sắn SVN5 (tên giống hiện tại KM419) là con lai của tổ hợp lai BKA900 x (KM98-5 x KM98-5) do Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tuyển chọn ban đầu. Giống sắn ưu tú BKA900 nhập nội từ Braxil có ưu điểm năng suất củ tươi cao nhưng cây giống không thật tốt, khó giữ giống cho vụ sau. Giống sắn KM98-5 là giống tốt đã được tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh cho phép mở rộng sản xuất từ năm 2002 và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 2009 (Trần Công Khanh và ctv, 2005).
Giống sắn lai KM419 có đặc điểm: Thân xanh, thẳng, nhặt mắt không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, năng suất củ tươi 40,2 đến 54 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 28,2 -29%. Giống KM419 ít nhiễm sâu bệnh.

Giống sắn SVN1 (KM414) là con lai của tổ hợp KM146-7-2 x KM143-8-1, chính là tổ hợp lai kép (KM98-5 x KM98 -5) x (KM98-1 x KM98-1) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chon tạo và khảo nghiệm năm 2003 (Hoàng Kim và ctv, 2009). Hai giống sắn KM98-1 và KM98-5 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT lần lượt công nhận giống năm 1999 và 2009 (Hoàng Kim và ctv, 1999; Trần Công Khanh và ctv, 2005). Giống sắn KM414 có đặc điểm: thân màu xám trắng, phân cành cao, lá xanh, ngọn xanh, dạng củ không được ưa thích bằng giống KM419, củ màu trắng, thích hợp làm sắn lát khô và làm bột. Năng suất củ tươi đạt 42,3 đến 52,3 tấn/ha; hàm lượng bột đạt 27,8 đến 29,5%.

Giống sắn SVN2 (KM397) là con lai của tổ hợp lai KM108-9-1 x  KM219 chính là tổ hợp lai kép (SM937-26 x  SM937-26) x (BKA900 x BKA900) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chon tạo và khảo nghiệm năm 2003 (Hoàng Kim và ctv 2009). Giống SM937-6 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1995 (Trần Ngọc Quyền và ctv, 1995).

Giống KM397 có đặc điểm: thân nâu tím, thẳng, nhặt mắt, không phân nhánh; lá xanh thẫm, ngọn xanh, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, thích hợp xắt lát phơi khô và làm bột. Thời gian thu hoạch 8-10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi 33,0 – 45,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 27,5 – 29,6%, tỷ lệ sắn lát khô 42,5 – 44,3%, năng suất tinh bột 9,2- 13,5 tấn/ha, năng suất sắn lát khô 13,8 – 17,6 tấn/ ha. chỉ số thu hoạch 60 – 63,0%. Giống sắn KM397 chịu khô hạn tốt, rất ít nhiễm sâu bệnh, thời gian giữ bột tương đương KM94.


Giống sắn SVN7
(HL2004-28=KM444) do Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm tuyển chọn ban đầu từ đánh giá tổ hợp lai  (GM444-2 x GM444-2) x XVP lai hữu tính năm 2003 của nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS). Giống SVN7 có đặc điểm gốc hơi cong, phân cành cao. Lá màu xanh đậm, ngọn xanh nhạt. Dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng. Đặc điểm nổi bật của giống SVN7 là rất ít nhiễm sâu bệnh. Năng suất củ tươi đạt 37,5 – 48,3 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt 28,3- 29,2%.


Giống sắn SVN3 (KM325) là kết quả chọn dòng tự phối đời ba của tổ hợp lai SC5 x SC5 theo hướng tạo dòng đơn bội kép kỹ thuật CIAT do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và khảo nghiệm. SC205 là giống sắn phổ biến nhất ở Trung Quốc hiện nay. Giống sắn SC5 do Học Viện Cây trồng Nhiệt Đới Nam Trung Quốc (SCATC) chọn từ tổ hợp lai ZM8625 x SC8013 công nhận giống quốc gia năm 2000. Hom giống được nhập nội vào Việt Nam từ Viện Nghiên cứu Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI) năm 2002.

Giống sắn KM325 có đặc điểm: thân nâu xám, nhặt mắt, phân nhánh cấp 1, lá xanh đậm, xẻ thùy sâu, ngọn xanh; củ hình dạng đẹp, đều; thịt củ màu trắng. Năng suất củ tươi khảo nghiệm đạt 27,0 -58,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 26,2 – 27,6 %, tỷ lệ sắn lát khô 37,8 %, năng suất sắn lát khô 15,3 – 17,2 tấn/ha, nhiễm sâu bệnh nhẹ, chịu thâm canh, thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám Đông Nam Bộ, nhược điểm là hàm lượng tinh bột thấp và chất lượng cây giống không tốt bằng KM94, KM140.

Giống sắn SVN4 (KM228 = KM440B) là dòng đột biến chọn lọc của 4000 hạt giống sắn KM94 *** (KM440B) đã qua chiếu xạ bằng nguồn Coban 60 trên hạt khô (Hoàng Kim và ctv, 2004). Giống sắn KM94 đã được trồng thuần cách ly và thu được trên 24.000 hạt sắn khô, sử dụng 16.000 hạt để tuyển chọn 18 cây đầu dòng ưu tú mang ký hiệu KM440 (KM440-1 … KM440-18), dùng 4000 hạt chuyển cho CIAT và sử dụng 4000 hạt để chiếu xạ đột biến lý học, nguồn Co 60 liều xạ 6Kr trên hạt khô cây đầu dòng KM440B (ký hiệu KM228 = KM440B /KM94*** )

Giống KM228 có đặc điểm: thân có màu xanh trắng, không hoặc ít phân nhánh; lá xanh đậm, ngọn xanh nhạt; củ dài, đều, vỏ củ láng, thịt củ màu trắng. Thời gian sinh trưởng 7 – 10 tháng. Năng suất củ tươi trong khảo nghiệm đạt 35 – 47 tấn/ ha, hàm lượng tinh bột 26 – 27%.

Giống sắn SVN6 (DT3 = KM331?) do Viện Di truyền Nông nghiệp tuyển chọn ban đầu. Giống SVN6 có đặc điểm: thân thẳng, lá xanh, cuống lá đỏ, củ thẳng đẹp, thịt củ màu vàng nhạt. Thời gian thu hoạch sớm 7-10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi khảo nghiệm đạt 33,7 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 27,9 %, tỷ lệ sắn lát khô 37,8 %, năng suất sắn lát khô 12,3 tấn/ha, năng suất tinh bột 9,1 tấn/ha. Giống sắn SVN6 thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám vùng Đông Nam Bộ, nhiễm nhẹ bệnh đốm nâu lá.

Giống sắn HB60* (KM390) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chọn tạo và khảo nghiệm. KM390 là kết quả chọn dòng tự phối đời ba từ tổ hợp lai HB60 x HB60 theo hướng tạo dòng đơn bội kép kỹ thuật CIAT. Hom giống được nhập nội vào Việt Nam từ Trường Đại học Karsetsart (KU) Thái Lan năm 2002. Giống HB60 do Trường Đại học Karsetsart Thái Lan chọn tạo từ R5 x KU50 công nhận giống quốc gia năm 2003. Giống sắn HB60* (KM390) có đặc điểm: thân nâu xám, ít phân nhánh, lá xanh, ngọn xanh; thịt củ màu trắng, tai lá rõ. Thời gian thu hoạch 8 -10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi khảo nghiệm đạt 33,0 – 40,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 27,9 %, tỷ lệ sắn lát khô 38,2 %, năng suất sắn lát khô 12,0 tấn/ha. Giống sắn KM390 thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám vùng Đông Nam Bộ, nhiễm nhiều bệnh đốm nâu lá.

Giống sắn SVN9 (OMR35-8 = KM297) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tuyển chọn ban đầu từ hạt giống OMR35-8 nguồn CIAT Colombia tạo dòng từ giống gốc CM9914 được nhập nội vào Việt Nam năm 2002. Giấy phép nhập khẩu giống sắn của Bộ Nông nghiệp & PTNT số 991/CV-NN-TT Phiếu nhập giống No 298491 nhập 12034 hạt sắn lai 53 tổ hợp từ CIAT-Colombia (mã số nguồn gen KM297). OMR35-8 chọn từ quần thể tự phối của CM9914 là con lai của tổ hợp lai CM7614-8 x SM1565-17. Giống có đặc điểm thân thẳng, phân cành cao, lá già màu xanh đậm, ngọn màu tím, cuống lá màu tím; thịt củ màu trắng, dạng củ đẹp. Giống SVN9 có năng suất đạt 32,8 – 42,5 tấn/ha, hàm lượng bột cao đạt 28,7 – 29,85, thích hợp cho chế biến tinh bột và sắn lát khô.

Giống sắn SVN10 (CM4955-7) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tuyển chọn ban đầu. Giống CM4955-7 được nhập nội hạt lai vào Việt Nam từ CIAT-Braxil năm 2002. Giấy phép nhập khẩu giống sắn của Bộ Nông nghiệp & PTNT số 991/CV-NN-TT. Phiếu nhập giống No 297895 nhập 7026 hạt từ CIAT-Colombia. CM4955-7 được CIAT tạo dòng từ BKA900 (mã số tập đoàn KM219) là giống sắn ưu tú của Braxil). Giống sắn SVN10 có đặc điểm thân thẳng, nhặt mắt, bộ lá màu xanh nhưng có nhược điểm là thân khó giữ giống cho vụ sau. Dạng củ thẳng, đẹp, thịt củ màu trắng. Năng suất đạt từ  30,5 – 39,8 tấn/ha, hàm lượng bột đạt 24,5 – 26,15%.

Giống sắn SVN8 (HL2004-32 = KM333) do Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm tuyển chọn ban đầu từ hạt giống CM9966-1, nguồn CIAT Colombia được nhập nội vào Việt Nam năm 2002. Giấy phép nhập khẩu giống sắn của Bộ Nông nghiệp & PTNT số 991/CV-NN-TT (mã số tập đoàn KM333)  Phiếu nhập giống No 298491 nhập 12034 hạt sắn lai 53 tổ hợp từ CIAT-Colombia. Giống có đặc điểm: Thân thẳng, không phân cành, lá xanh, cuống màu đỏ. Thịt củ màu trắng. Thời gian thu hoạch 8-10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi khảo nghiệm đạt 33,7- 39,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 27,9 %, tỷ lệ sắn lát khô 37,8 %, năng suất sắn lát khô 12,3 tấn/ha, năng suất tinh bột 9,1 tấn/ha. Giống sắn SVN8 thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám vùng Đông Nam Bộ.

Giống sắn SVN11 (NTB-1 = SC6?) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tuyển chọn ban đầu. Giống gốc có thể là SC6 do Học Viện Cây trồng Nhiệt Đới Nam Trung Quốc (SCATC) chọn tạo từ OMR33-10-4 và công nhận quốc gia năm 2001. Giống được nhập nội vào Việt Nam từ Viện Nghiên cứu Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI) năm 2002 với mã số tập đoàn KM320. Giống SVN11 có đặc điểm: thân nâu xám, phân nhánh cấp 2, 3, lá xanh, ngọn xanh; thịt củ màu trắng. Thời gian thu hoạch 8-10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi khảo nghiệm đạt 27,8- 39,5 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 25,4- 27,3 %, tỷ lệ sắn lát khô 36,1%, năng suất sắn lát khô 10,0 tấn/ha. Giống sắn SVN11 (NTB-1) nhiễm sâu bệnh nhẹ, thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám vùng Đông Nam Bộ.

Giống sắn HL23*** (KM318) là con lai của tổ hợp lai SM2949-1 x (HL23 x HL23) do Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tuyển chọn ban đầu. HL23 là giống sắn ăn tươi chất lượng rất ngon được tự phối đời ba theo hướng tạo dòng đơn bội kép kỹ thuật CIAT sau đó đem lai hữu tính với giống sắn SM2949-1 mang gen kháng virus châu Phi.  Hạt sắn lai quần thể giống gốc SM2949-1 có nguồn gốc cha mẹ từ tổ hợp SM805-15 tự phối được nhập nội từ CIAT năm 2002. Giấy phép nhập khẩu giống sắn của Bộ Nông nghiệp & PTNT số 991/CV-NN-TT (mã số tập đoàn KM318)  Phiếu nhập giống No 297895 nhập 7026 hạt từ CIAT-Colombia. CM4955-7 được CIAT tạo dòng từ tổ hợp SM805-15 tự phối là giống sắn mang gen kháng virus xoăn lá sắn châu Phi.  Giống sắn HL23* có đặc điểm: thân xám trắng, nhặt mắt phân nhánh cấp 1; lá xanh đậm, ngọn xanh; củ dạng đẹp, đồng đều; thịt củ màu trắng. Năng suất củ tươi 22,5- 37,5 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 26,5 – 28,5%. Thời gian thu hoạch từ 8-10 tháng sau trồng. Giống HL23*** đã được cải tiến tốt hơn so với giống gốc ban đầu HL23.

Trần Ngọc Ngoạn, Hoàng Kim,

Xem thêm: Những giống sắn phổ biến ở Việt Nam

Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC
; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Cây Lương thực trong văn hoá Việt

Food Crops in Vietnam’s culture

VietNam Airlines Commercial

I love VietNam Airlines Commercial.
I love how they show Vietnam’s culture in this video.
I love the view of the lotus field.
I love the idea of steaming rice in the lotus leaf.

Anthony Bourdain: No R…: Anthony Bourdain – Banh Mi in Vietnam

Anthony Bourdain returns to Vietnam, a food destination like none other in the world, where he samples Banh Mi — a hearty sandwich loaded with ham, cucumbers, dressing, and topped off with a fried egg. New episodes of Anthony Bourdain: No Reservations air Monday nights at 10PM ET, only on the Travel Channel. http://www.travelchannel.com/TV_Shows/Anthony_Bourdain

Cây Lương thực Việt Nam hiện trạng và định hướng phát triển

 

CÂY LƯƠNG THỰC. Khái quát hiện trạng sản xuất cây lương thực ở Việt Nam. Định hướng nghiên cứu phát triển cây lương thực. “Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2011-2020 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. “Kế hoạch tổng thể nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020”xem tiếp

 

Trở về trang chính

 

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC


Vua Hùng là vua Lúa ?

NGỌC PHƯƠNG NAM Trang “Blog của 5 xu” có bài viết Vua Hùng tên thật là gì? Chữ Hùng (trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước? Trích dẫn văn bản “Giao Châu ngoại vực ký” và “Nam Việt chí”, tác giả đưa ra ý kiến lý thú: Lạc có trước , Hùng có sau. Lạc là sự đọc chệch đi của Lúa, chim Lạc là chim Lúa, vua Hùng là vua Lúa. Người Mường, cùng ngôn ngữ với người Việt cổ, gọi Lúa là Ló là Lọ. Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, Ló mường Vang”. Tôi (HK) trước đây đã biết về câu tục ngữ này, nay chuyên dạy và học cây lương thực. Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa nên rất thú vị với kiến giải độc đáo “vua Hùng là vua Lúa”. Xin lưu lại tư liệu này v Trống đồng Việt Nam Trống đồng Đông Sơn để tiếp tục nghiên cứu (ảnh Trống đồng Đông Sơn, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử, Hà Nội, Việt Nam)

1. Hùng và Lạc

Chữ Hùng (trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước?

Chữ Lạc có trước, xuất hiện trong văn bản Giao Châu ngoại vực kí [交州外域記, Jiaozhou waiyu ji]. Cụ thể như sau:

交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。雒將銅印青綬。

Giao châu ngoại vực kí viết: “Giao Chỉ tích vị hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền, kì điền tòng triều thủy thượng hạ/thướng há, dân khẩn thực kì điền, nhân danh vi lạc dân. Thiết lạc vương lạc hầu chủ chư quận huyện. Huyện đa vi lạc tướng. Lạc tướng đồng ấn thanh viện.”

Giao châu ngoại vực kí nói rằng: ‘Jiaozhi/ Giao Chỉ thời xưa khi chưa có quận huyện, đất đai (thì) có ruộnglạc. Những ruộng này theo (sự) lên xuống của con nước, và người dân cày cấy lấy cái ăn [ở] ruộng đó vì thế được gọi là dân lạc. Đặt các ông hoàng lạc (lạc vương), các ông quanlạc (lạc hầu) cai quản ở các quận huyện. Nhiều huyện có tướng lạc (lạc tướng). Các tướng lạc có dấu đồng và dải xanh.’

Chữ Hùng có sau, xuất hiện trong Nam Việt Chí. Cụ thể như sau:

交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志)

Giao Chỉ chi địa phả vi cao du, tỉ dân cư chi, thủy tri bá thực, quyết thổ duy hắc nhưỡng, quyết khí duy hùng, cố kim xưng kì điền vi hùng điền, kì dân vi hùng dân, hữu quân trưởng diệc viết hùng vương, hữu phụ tá yên diệc viết hùng hầu, phân kì địa dĩ vi hùng tướng.

Vùng đất Jiaozhi/ Giao Chỉ tương đối màu mỡ. Di dân đến sống ở đó, mới bắt đầu biết gieo trồng. Đất ở đây rặt là đất phì nhiêu đen. Khí ở đây mạnh (hùng). Cho nên bây giờ gọi những ruộng ở đây là ruộng hùng, dân ở đây là dân hùng. Có người lãnh đạo tối cao (quân trưởng) cũng gọi là vua hùng (hùng vương). Có những người phụ tá ông ấy [tức ông vuahùng] thì cũng gọi là quan hùng (hùng hầu). Chia đất ở đây để cho các tướng hùng (hùng tướng).

Chi tiết, xin xem bài dịch cực hay “Có các vua “Lạc” hoặc có các vua “Hùng” hay không? Hay là chẳng có cả hai?”.

2.Hùng hay Lạc

Nam Việt Chí ra đời sau Giao Châu ngoại vực ký hàng trăm năm. Quan trọng hơn, chữ Lạc (雒) chữ chỉ là để phiên âm từ tiếng Việt cổ qua chữ Hán cổ. Còn chữ Hùng (雄) là một chữ có nghĩa.

3. Chữ Lạc từ đâu mà có.

Người Việt cổ không có họ. Tên đặt theo nghề. Đến đời Trần vẫn đặt tên theo nghề cá. Lần ngược lên thời Hai Bà, tên người được đặt theo nghề nuôi tằm (Trứng Chắc, Trứng Nhì, rồi được người Tàu văn bản hóa bằng hán tự, rồi được các nhà sử học ngày xưa của VN dịch về tiếng ta thành Trưng Trắc, Trưng Nhị. Có rất nhiều ví dụ về tên nôm của danh nhân được người Tàu hán tự hóa rồi dịch ngược ra tiếng ta. Ai đọc Tạ Chí Đại Trường sẽ nhớ trường hợp rất thú vị của Lý Thường Kiệt – Thằng Kặc. Ngay cả trong lịch sử cận đại, nhiều tên riêng do phiên âm qua chữ latin rồi sau này dịch ngược lại qua tiếng Việt cũng có những biến thể thú vị như Chí Hòa – Kỳ Hòa, Vũng Quýt – Dung Quất).

Quay trở lại với văn bản Giao Châu Ngoại Vực Ký đã nói ở trên, thời cổ người dân sống bằng nghề nông, trồng cây lạc, trên các thửa ruộng lạc, tưới tiêu bằng thủy lợi tự nhiên, dân sống trên ruộng lạc, gọi là dân lạc, thủ lĩnh của dân lạc gọi là lạc vương, dưới lạc vương là các lạc hầu, lạc tướng.

Chữ Lạc chính là chữ lúa. Ruộng lạc là ruộng lúa. Dân lạc là dân (trồng) lúa. Tiếng Việt cổ gọi lúa là Lọ. Phiên âm qua tiếng Hán rồi phiên âm ngược lại tiếng Việt mà trở thành Lạc.

Người Mường (cùng ngôn ngữ với người Việt cổ) gọi Lúa là Lọ hoặc Ló. Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, Lọ mường Vang” (cám ơn chú Huy Tâm đã dạy cháu từ này).

Qua bao năm lạc lối, tên riêng Lúa của cha ông chúng ta, chạy qua bên Tàu, quay về với các nhà viết sử Việt thời cổ, lạc tiếp vài lần nữa, thành chữ Lạc. Nay nhờ 5xu biết google nghiên cứu mà tìm ra nghĩa gốc của từ. Chúc mừng Vua Lúa (nước) tục gọi Hùng Vương. Chúng con xin trả tên đúng về cho cụ.

Xem thêm “Con chim Lạc là con chim gì?”Biển Đông. và 16 cảm nhận

Nguồn: http://5xublog.org/2012/01/06/vua-hung-ten-th%E1%BA%ADt-la-gi/

Những bài liên quan:

Trống đồng Việt Nam

Trống đồng Việt Nam phân bố ở nhiều nơi  Trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn… đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu… vào tận vùng hải đảo xa xôi Phú Quốc. Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa hoặc trao đổi, trống đồng Việt Nam vượt biên giới đến những nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thailand, Malaysia…

Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ.

Trống đồng Việt Nam có niên đại khởi đầu khoảng thiên niên kỷ I trước Công nguyên cho đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ, cộng đồng cư dân đã chinh phục vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, một vùng đất chứa nhiều sản vật thiên nhiên nhưng cũng đầy thử thách. Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có đã tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau bản địa, nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Á.

Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta – Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những hình khắc họa trên trống đã giúp chúng ta ngày nay hình dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ.

Trống Đồng Đông Sơn: là một loại nhạc cụ dùng trong các buổi lễ hay khi đi đánh nhau. Trống đồng được tìm thấy ở nhiều nơi trên đất Việt Nam, như Thanh Hóa (Đông Sơn, 24 trống), Hà Đông (9 trống), Bắc Ninh, Cao Bằng (mỗi tỉnh 3 trống), Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình, Kiến An (mỗi nơi 2 trống), Nam Định, Lào Cai, Sơn Tây, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum (mỗi nơi một trống). Ở Hoa Nam thì tìm thấy nhiều nhất, ở Vân Nam (5 trống). Các tỉnh khác thì Quế Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên (mỗi tỉnh tìm thấy 3 trống), Quảng Đông (2 trống). Tại Cam bốt, Lào, Thái Lan, Miến Điện, MãLai, Nam Dương cũng thấy nhiều trống đồng cổ. Riêng Thái Lan và Lào cũng như ở xứ Mường (thượng du Việt Nam) ngày nay người ta vẫn còn dùng trống đồng. Trống đồng đẹp nhất phải kể đến các trống Ngọc Lũ, Hoà Bình, và Hoàng Hạ.

Trống Đồng Ngọc Lũ: 

 

Tìm thấy ở chùa Ngọc Lũ (Hà Nam) vào năm 1901. Trống này cao 0,63 mét (1.8 ft), đường kính mặt trống 0,86 mét (2.5 ft), được trang trí bằng các hình chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống. Chính giữa mặt trống là một hình ngôi sao (hay mặt trời) 14 cánh. Chung quanh ngôi sao này là 16 vòng tròn đồng tâm có trang trí bằng nhiều hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau. Giữa vòng thứ 5 và thứ 6 có khắc hình 2 căn nhà mái cong, có sàn, trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn trống và đoàn vũ nhạc nhảy múa, thổi khèn. Sau nhà có 2 người đang giã gạo. Xen kẽ với 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tròn trong có người cầm kiếm. Trước nhà này có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một con chim. Sau nhà là một đoàn võsĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa. Giữa vòng thứ 7 và thứ 8 có chạm hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) và xen kẽ với 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa vòng thứ 8 và thứ 9 có khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con chim đang đậu dưới đất. Trên tang trống, phần phình ra có khắc hình thuyền trên có những người cầm lao, kiếm, cung, đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc đang nhảy múa hoặc chèo thuyền. Trên phần thẳng đứng có những đường trang trí kỷ hà thẳng đứng hay nằm ngang đóng khung lấy những hình người cầm rìu và lá chắn.

 

Trống Đồng Hòa Bình: 

Tìm thấy ở Mường Dâu, Hòa Bình. Trống này được gọi là trống Moulié (tên người mua được và tặng lại cho Viện Bảo Tàng). Trống này được tàng trữ trong Bảo Tàng Quân Đội Pháp, rồi được chuyển cho Bảo Tàng Viện Guimet (Paris).

Trống Đồng Hoàng Hạ : 

 

Tìm thấy ở làng Hoàng Hạ (Hà Đông), cao 0,615 mét (1.84 ft) và đường kính mặt trống là 0,78 mét (2.3 ft). Mặt trống đồng Hoàng Hạ cũng trang trí bằng các vòng tròn đồng tâm trong đó có khắc hình nhà sàn, người, chim bay. Tang trống chỗ phình ra cũng khắc hình thuyền. Các nhân vật trên thuyền tương tự như ở trống Ngọc Lũ, nhưng thứ tự bố trí hơi thay đổi một chút. Các trống đồng tìm thấy ở Hoa Nam, Lào, Cam bốt, Mã Lai tuy về hình thức (hình dáng và trang trí) có giống trống đồng Lạc Việt, nhưng những nét chạm trổ còn thô sơ vô cùng. Có thể đấy chỉ là những trống bắt chước trống Lạc Việt một cách vụng về mà thôi. Trống đồng Hoàng Hạ là một di vật rất quý.

Trống là một cổ vật của chung miền Nam Á, gồm cả Tàu, Việt, Miên, Thái, Phi, Miến, Mã Lai, Nam Dương… mà trung tâm phát xuất lớn nhất là Việt Nam. Trống đã xuất hiện lu bù ngay từ thời khuyết sử, dưới rất nhiều hình thức như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa, trống sấm, trống vu hích, trống cầm canh… kể ra không hết. Huyền thoại có nói đến trống da quì (giao long) của Hoàng Đế, trống một chân của nhà Hạ (túc cổ), trống có lỗ thông giữa của nhà Thương (doanh cổ)… lịch sử Tư Mã Thiên có nhắc tới vụ vua nhà Chu cho Tần Mục Công một chiếc trống đồng vào năm 623 trước công nguyên. Riêng với Việt Nam, năm 43, lúc Mã Viện sang đánh Trưng Nữ Vương đã thu hết trống đồng đưa về tặng bạn bè, hoặc phá ra đúc ngựa mẫu. Từ đấy, trống bị quên lãng dần dưới ách ngoại bang… Trong Lĩnh Nam Trích Quái, có truyện “Minh chủ Đồng cổ sơn thần truyện” nhắc tới trống theo khía cạnh này. Đến thời Pháp thuộc, vào lối 1885- 1895, thực dân mới nhận ra trống đồng là một di vật rất quý, nên tìm mua khắp nơi. Xin ghi lại đây mấy chiếc nổi tiếng. Trước hết là 2 chiếc loại thời danh nhất: Một do Moulié lấy được của bà góa quan lang người Mường ở miền Sông Đài tỉnh Hoà Bình. Chiếc này được đem trưng bày ở Hội Chợ Quốc Tế Paris 1889 rồi mất tích. Đến năm 1936 thấy xuất hiện ở bảo tàng viện Guimet. Hai, là chiếc trống Khai Hóa, do Gillet lấy được ở một tù trưởng Miêu tộc trên Vân Nam, cũng đưa đi đấu xảo ở Paris, rồi mất tích. Sau thấy xuất hiện ở bên Đức, tại bảo tàng viện dân tộc học thành Vienne. Chiếc trống đồng thứ ba là trống Ngọc Lũcủa chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Năm 1901, trường Viễn Đông Pháp đã nhờ trung gian chánh sứ Phủ Lý lấy trống ấy về Viễn Đông Bác Cổ, nay ở Hà Nội. Chiếc trống thứ tư là trống Hoàng Hạ, tìm được vào năm 1932, nhân lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh Hà Đông. Trống được trao cho trường Viễn Đông Pháp, để ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà Nội. Đó là cặp trống đẹp nhất, cổ nhất, hơn cả 2 trống Sông Đà và Khai Hóa… Có thể kể ở đây chiếc trống thứ năm, gọi là Trống Hà Nội, được Anderson mua, đưa về Stockhom. Và chiếc thứ sáu là trống Lào, tìm được bên đường cái Oubon bên Lào vào năm 1924. Theo Goloubew, chiếc trống này rất đẹp, cũng vào hạng cổ nhất, vì ít bị kiểu thức hóa. Mặt trống rộng 86 cm, cao 54 cm. Vòng 1 có 5 cặp vật giống giao long châu đầu vào nhau. Có nai và cả cá nữa. Về loại to nhất có trống Đông Hiếu (Nghệ An) rộng 89 cm, hiện ở Hà Nội. Theo Goloubew, còn một chiếc trống rộng tới 1 mét (3 ft) của một tay chơi người Pháp tên là Nelson trước ở Bắc Xế, Lào. Nghe nói ở bên Mỹ có một trống to cả thước mặt, hay là chiếc trống nói ở đây chăng? (Chúng tôi thấy có một trống rất lớn ở bảo tàng Chicago. Hay là chính nó?). Phân Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết đã biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng mãi tới cuối thếkỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông ở Hà Nội năm 1902 đã cho xuất bản tại Leipzig 2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ lớn, có 45 hình và một bản mục lục về tất cả các diễn đề. Ông Heger chống lại ý kiến của Hirth cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ý kiến của Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc Việt, và xin người Pháp chú ý đến di vật đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại. Vì sự phân chia này được các học giả công nhận, nên chúng ta cần duyệt qua để có một ý niệm khái quát:

 

Loại I thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống Quảng Xương. Hoặc 14 cánh như trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như trống Hoàng Hạ, Salayar. Loại I này tìm được nhiều nhất ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, và Sông Đà.

 

Loại II thân trống chỉ có 2 phần, không có hình người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn hình học. Trên mặt trống thường có hình khối 4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại này tìm thấy nhiều ở Việt Nam cũng như mạn Nam Trung Hoa.

 

Loại III quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng đồ án hình học và hoa văn. Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây “đời sống”. Đôi khi ốc thay voi. Người ta tìm thấy loại này ở Miên. Loại IV riêng của Tầu như được chứng tỏ bằng hồi văn gẫy khúc. Kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi nói rõtên 12 con vật địa chi. Loại này cũng như loại III, đều xuất hiện muộn, nhưng chưa xác định được niên đại. Ngoài 4 loại trên có thể kể thêm loại trống Trấn Ninh (Vân Nam) mới tìm được hồi năm 1955, trên mặt có những khối hình người và thú (bò, ngựa, chó) diễn lại những cảnh sống: săn, chiến, lễ… Loại này khác hẳn ở chỗ thân trống cao, trên mặt thêm nhà cùng hình khối, quai là 2 con hổ.

Nguồn: http://vietsciences.free.fr/vietnam/phongtuctapquan/trongdongvietnam.htm


Thanh Hóa ngày nay, vùng đất Cửu Chân xưa với lưu vực sông Mã là một trong những trung tâm thời đại kim khí, địa bàn trọng yếu của Quốc gia Văn Lang – Âu Lạc thời các vua Hùng, là một trong những trung tâm quan trọng trong việc chế tạo, sử dụng, giao lưu, trao đổi trống đồng cổ của Việt Nam.



Lưu vực sông Mã là nơi phát hiện, sớm khai quật di tích văn hoá Đông Sơn phân bố dày đặc từ đồng bằng, trung du đến miền núi Thanh Hóa (trên 100 địa điểm). Đây cũng là nơi sưu tầm được trống loại I Heger, được mệnh danh là trống Đông Sơn. Trống Đông Sơn phát hiện ở Thanh Hoá nhiều nhất so với các địa phương trên toàn quốc (trên 60 trống) loạiI Heger. Thanh Hoá còn là nơi tìm thấy 26 trống loại II Heger tính đến năm 1999 (sau tỉnh Hoà Bình) và là nơi có 2 di tích thờ trống đồng cổ làm thành hoàng.Nghệ thuật trống Đông Sơn ở Thanh Hoá không tách rời nghệ thuật Đông Sơn nói chung và nghệ thuật trống đồng ở Việt Nam nói riêng. Nền nghệ thuật ấy có cội nguồn từ nghệ thuật tạo hoa văn trên đồ gốm Tiền Đông Sơn và có sự thống nhất, ổn định ở chính địa bàn Thanh Hoá.

Ngoài những nét chung, nghệ thuật trống Đông Sơn Thanh Hoá có những nét riêng.Về hình dáng, dòng trống lưng thẳng không chỉ ổn định trên trống Đông Sơn ở Thanh Hoá giai đoạn sớm mà còn xuyên suốt các loại trống muộn sau này, nhất là những trống loại II Heger ở Thanh Hoá. Tỷ lệ giữa chiều cao và đường kính mặt của trống Đông Sơn ở Thanh Hoá chưa ổn định.
Tư liệu đã khảo sát cho thấy, người Việt cổ ở Thanh Hoá có xu thế muốn mở rộng bề mặt trống, tạo nên dáng trống thấp bè. Điều này về mặt nghệ thuật người Việt cổ đã khắc phục bằng cách tạo cho mặt trống chờm ra khỏi tang dung hoà được hai yêu cầu về mỹ thuật và âm nhạc. Dưới góc độ nghệ thuật trang trí, ngoài những nét chung so với những trống cùng loại phát triển ở nước ta, trống đồng Thanh Hóa có một số nét riêng độc đáo.

Như chúng ta đều biết, những mô típ trang trí chủ đạo của trống loại I Heger là hình người hoá trang lông chim, hình thuyền, nhà sàn, những vòng tròn có tiếp tuyến và tượng động vật. Những mô típ đó được trang trí trên trống Đông Sơn Thanh Hoá nhưng có nét riêng dễ nhận biết.Hình tượng con thuyền trên trống Đông Sơn ở Thanh Hóa, nhìn chung được khái quát cao. Thuyền có dáng cánh cung, gần với dáng thuyền “thúng” được đan bằng tre nứa, có chiều dài chỉ gấp 2 lần chiều cao.

Trong khi đó, trống Đông Sơn ở các nơi khác có hình thuyền thuôn dài, gợi lại thuyền đua bơi chải, tỷ lệ chiều dài thường gấp 4 đến 8 lần chiều cao. Thuyền được hoá trang hình lông chim là một đặc điểm của trống loại I Heger Thanh Hoá. Ở đây, đầu chim có mỏ dài được trang trí không chỉ đầu thuyền, đuôi thuyền mà cả bánh lái.

Điểm đặc thù nữa là trên thuyền không có mái chèo như các thuyền trên các trống khác. Trang trí đầu chim mỏ dài trên bánh lái thuyền và sự thiếu vắng mái chèo là nét riêng biệt của trống Thanh Hoá.

Người trên thuyền được hoá trang lông chim là đặc điểm chung của trống loại I Heger, song trên trống Thanh Hoá số lượng người trên một thuyền không đông, thường chỉ có 2 người; trong khi đó trống loại I ở các nơi khác số lượng người khá đông, thường là 5 hoặc 7 người, thậm chí đông hơn. Bố cục người trên thuyền ở trống Thanh Hoá cũng có nét riêng đáng ghi nhận.Do số người ít (2 người) và trên thuyền không mái chèo, nên thường bố cục một người đứng ở mũi và một người đứng ở cuối thuyền, mặt hướng về phía trước (mũi thuyền) và cùng nâng một cái “neo”.

Bên cạnh đặc điểm riêng : thuyền hình cánh cung, không mái chèo, bánh lái trang trí đầu chim, người trên rùa trên trống Cẩm Quý, con khỉ trên trống Thạch Thành và đặc biệt hơn cả là chim thiên nga trên trống Hoằng Phụ và con trâu trên trống Vĩnh Hùng phát hiện mới đây. Hình tượng chim thiên nga và con trâu trên cặp trống này chưa hề gặp trên trống đồng phát hiện ở nước ta trước đây. Thân trống Hoằng Phụ (Hoằng Hoá) có 4 vành hoa văn : 2 vành hoa văn hình chim xen 2 vành hoa văn đường tròn có chấm giữa.

Đáng chú ý là hình chim khắc trên trống đồng.Mỗi vành có 4 chim, 2 chim đầu quay lên, 2 chim đầu quay xuống, giãn cách giữa các chim không đều nhau. Chim đầu quay lên mỏ hướng thuận chiều kim đồng hồ, còn chim đầu quay xuống mỏ ướng ngược chiều kim đồng hồ.

Khác với hình chim Lạc thường thấy trên trống Đông Sơn (mỏ dài và nhọn, cổ dài và vươn thẳng, cánh sải rộng và gần vuông góc với thân, chân cao và gấp khúc), chim trên trống Hoằng Phụ mỏ ngắn, cổ cong, hai cánh xoè cong sải về 2 phía, đuôi và lông chim tả thực.

Điểm đáng chú ý là hình chim thiên nga ở đây được diễn tả trong tư thế đang hạ cánh xuống mặt nước. Nghệ nhân xưa đã quan sát khá tinh tế đối tượng miêu tả bằng những nét đơn giản mang tính khái quát cao, bố cục chặt chẽ giữa chim và mặt nước, cánh chim khép hờ dần dần hạ mình xuống, chân ở tư thế chạm nhẹ vào mặt nước gợn sóng, vài tia nước bắn lên. Hình ảnh chim thiên nga sà mặt nước gợi cho người xem cảm giác ấm cúng, thanh bình của đồng quê vùng sông nước.

Trống Vĩnh Hùng (huyện Vĩnh Lộc) thân cao 25,5 cm; đường kính mặt 40cm; đường kính đáy 45cm. Mặt trống không chờm khỏi tang, không có tượng. Tang trống có 3 vành hoa văn (từ trên xuống) : vành 1 hoa văn đường tròn có chấm giữa không tiếp tuyến, vành 2 hoa văn tam giác nhọn đứng, vành 3 và 4 là hoa văn khắc 4 hình thuyền (trên thuyền có người và con trâu). Thân trống có 3 vành hoa văn : vành 1 khắc 8 hình con trâu, vành 2 hoa văn vòng tròn chấm giữa và vành 3 là hoa văn tam giác nhọn đứng. Chân trống không hoa văn. Về loại hình, trống Vĩnh Hùng có thể thuộc loại I Heger nhưng muộn, nếu không phải là loại trung gian I – II Heger.
Đặc biệt là bố cục trâu trên thuyền ở phần tang và con trâu trang trí độc lập ở thân trống. Cả 4 thuyền khắc rất mảnh, mũi thuyền hướng ngược chiều kim đồng hồ, đầu, đuôi và bánh lái trang trí đầu chim có mắt. Trên thuyền có 1 người và 1 con trâu. Người ngồi nghiêng, mặt hướng mũi thuyền, 2 chân dạng, 2 tay nâng vật gì đó trang trí hình lông chim, người trang trí lông chim, do gió thổi nên những lông chim này bay hất về phía sau, để lộ cơ thể người cường tráng. Sau người là 1 con trâu trong tư thế đứng; đầu to mập, 2 sừng lớn cong thuôn nhỏ dần và cụp đều vào phía trong; mắt trâu mở to, không động tử; cổ ngắn dày, có ú nổi ở vai, dưới cổ có yếm sệ; bụng to tròn hơi sa, đuôi to có lông bay về phía sau. Tám con trâu ở phần thân cũng có nét tương tự như vậy nhưng kích cỡ to hơn. Bố cục thuyền, người và trâu khá chặt chẽ. Sử dụng chiều bay của lông chim hoá trang trên người và lông đuôi trâu để diễn tả thuyền đang lướt sóng. Hình tượng con trâu được khắc tạc thành công. Đó là con nghé cái đang tuổi dậy thì chuyển thành trâu. thuyền ít, trên trống Thanh Hoá đã xuất hiện mới nghệ thuật trang trí tượng vịt thay cho vị trí tượng cóc.

Đó là trường hợp 4 khối tượng vịt trên mặt trống Cẩm Giang. Những nét riêng trong thuật trang trí trống loại II ở Thanh Hoá có thể nêu ra một số điểm chính sau đây : Một là sự xuất hiện đồng thời tượng cóc và tượng voi trên một mặt trống (như trường hợp trống Phùng Giáo); hai là xuất hiện hoa văn khắc các động vật như hình con .Theo kinh nghiệm dân gian, trâu cái ở tuổi dậy thì thường có u nổi ở vai, cổ ngắn lại, bụng hơi sệ. Hình tượng con vật này hoàn toàn khác với loại bò u được khắc trên trống đồng Đồi Ro. Đối với nhà nông, nghé chuyển thành trâu là hết sức quan trọng, bởi đây là thời kỳ bắt đầu sử dụng chúng có hiệu quả cao vào sức kéo, bắt đầu thời kỳ sinh sản. Phải chăng đó là điểm chốt của con vật “đầu cơ nghiệp” của cư dân văn hoá Đông Sơn. Hình tượng người và trâu trên thuyền đang lướt sóng ở trống Vĩnh Hùng còn có ý nghĩa gợi lên sự giao lưu trao đổi con vật này giữa các vùng bằng đường thuỷ trong quốc gia Văn Lang, thậm chí rộng hơn, xa hơn.

Nhìn chung, trống đồng Thanh Hoá có nét đặc thù, độc đáo, thường là tả thực, dễ nhận biết nhất là giai đoạn muộn. Mối liên kết giữa các giai đoạn trong dòng phát triển trống Đông Sơn thường biểu hiện rõ qua các hoạ tiết hoa văn hình học, còn các đồ án hoa văn chủ đạo vừa nêu thường có những đột biến, nhảy vọt.

Trống Đông Sơn là sản phẩm của văn hoá Đông Sơn, một biểu hiện sinh động tài năng, trí sáng tạo và trình độ phát triển cao của tổ tiên chúng ta thời dựng nước. Dưới góc độ văn hoá truyền thống, nghệ thuật trang trí trên trống đồng cổ Đông Sơn đã tiếp thu có chọn lọc từ nhiều thế hệ trước đó. Trong sự phát triển của văn hoá Việt Nam, người ta có thể nhận ra những yếu tố truyền thống tiếp thu từ nghệ thuật trống đồng. Nếu như nhà dân tộc học đã nhận ra những mô típ hoa văn trống Đông Sơn trên cạp váy Mường, thì nhà nghiên cứu tôn giáo cũng nhận ra sự ảnh hưởng qua lại giữa nghệ thuật Phật giáo với phong cách trang trí trống loại II. Giới mỹ thuật Việt Nam đương đại cũng đã từng tiếp thu một số yếu tố trên trống Đông Sơn làm phong phú thêm nghệ thuật dân tộc.

Nghệ thuật trống đồng cổ là sản phẩm của một tộc người nhất định, phân bố trên địa bàn nhất định và tồn tại trong một thời gian nhất định. 60 trống loại I và 26 trống loại II phát hiện ở Thanh Hoá là của người Việt cổ, phân bố ở địa bàn Thanh Hoá và tồn tại hàng nghìn năm. Nghệ thuật trống đồng xứ Thanh trong tâm thức người Việt cổ ít biến động trong không gian, nhưng luôn biến đổi theo thời gian. Khảo sát nghệ thuật trống đồng Thanh Hoá mang tính địa phương của một vùng phân bố đậm đặc di tích văn hoá Đông Sơn. Đặt trống đồng cổ loại I và loại II trong thời gian của nó, chúng ta có thể lý giải sự biến đổi mang tính lịch sử. Qua nghìn năm Bắc thuộc, rồi chung tay xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ càng chứng tỏ sự trường tồn của một nền văn hoá.

Dưới góc độ bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật trống đồng văn hoá dân tộc đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết, cả yếu tố truyền thống lẫn tình cảm. Trong cơn sốt nguyên liệu đồng, nhiều người đã sử dụng máy dò kim loại để săn tìm trống đồng còn trong lòng đất, cùng với nó là việc mua bán đồ cổ, nhiều trống đồng đã bị phá huỷ hoặc thất thoát. Một số tư nhân hiện đang lưu giữ trống đồng, đòi hỏi quá cao khiến cho việc sưu tầm, nghiên cứu và quản lý trống đồng trở nên khó khăn. Nhiều nơi xuất hiện trống đồng giả, tình trạng buôn bán, trao đổi trống đồng vẫn diễn ra. Nhằm bảo vệ di sản trống đồng, cần tiến hành tổng kiểm kê, lập hồ sơ trống đồng trên toàn quốc.

Đây là cách tốt nhất để quản lý trống đồng đã biết.

Xã hội hóa, dành kinh phí thỏa đáng để truy thu những trống hiện còn trong nhân dân. Trường hợp nơi nào còn, có nhu cầu sử dụng trống đồng cần khôi phục, tổ chức lễ hội trống đồng cùng các hoạt động kèm theo. Đi liền với bảo vệ là phát huy di sản trống đồng. Năm 1998, trống Đông Sơn đã được Chủ tịch nước Trần Đức Lương trân trọng đặt tại trụ sở Liên Hiệp quốc. Qua đó giới thiệu, quảng bá với nhân dân thế giới nét đặc sắc văn hoá cổ truyền Việt Nam , đóng góp chung vào kho tàng văn hoá nhân loại. Nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật trang trí trống đồng Đông Sơn tự nó toát lên cái đẹp, sự kết tinh rực rỡ văn hóa dân tộc.

Nhiều thế hệ người Việt Nam đã tìm cách khai thác, phát huy giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật Đông Sơn. Chúng ta đã thấy biểu tượng mặt trống đồng trên màn hình VTV1; trên bìa các trang sách của Nhà xuất bản Thế giới, trên những phù hiệu của ngành hàng không, du lịch Việt Nam, trên những mô hình xây dựng lớn và cả trên văn bằng tiến sĩ khoa học của Việt Nam. Đặc biệt, trống đồng còn được người Mường, người Lô Lô và một số dân tộc khác lưu giữ và sử dụng như một di sản văn hoá đặc sắc của tộc người mình.

Thiết nghĩ, sức sống lâu bền của trống đồng không chỉ là tâm thức mà là ở việc khai thác, sử dụng trống trong cộng đồng người Việt hôm nay. Riêng Thanh Hoá, chúng ta cần khôi phục, phát triển nghề đúc đồng tại làng Trà Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá. Gần đây (2006), Hội cổ vật Thanh Hoa phối hợp với các nghệ nhân đúc đồng xã Thiệu Trung đã mở hội thi đúc trống đồng tại Thanh Hóa và tỉnh Thái Nguyên đã có kết quả nhất định. Các trống đúc ra theo hai phương pháp cổ truyền là đổ đồng từ lưng trống và đổ đồng từ ngôi sao trên mặt trống. Hai phương pháp đúc trống đồng đều đạt kết quả khá , song phương pháp đúc trống đổ đồng từ lưng trống khả quan hơn, nguyên vẹn, tạo vẻ đẹp nguyên dáng, thanh thoát như trống đồng cổ xưa nhưng phân tích âm thanh thì thế hệ hậu sinh còn thua xa tiền bối.

Vậy nên tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu về nghệ thuật đúc đồng Đông Sơn. Xây dựng thí điểm mô hình khu công nghiệp-làng nghề đạt tiêu chuẩn về môi trường, kết hợp được cả hai yếu tố làng và nghề (vừa sản xuất – kinh doanh – vừa có dân cư sinh sống nhưng xa nơi sản xuất). Việc xây dựng làng nghề truyền thống tập trung trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết. Mục tiêu cơ bản là góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Phát triển ngành nghề thủ công, đòi hỏi phải mở rộng không gian áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tạo mặt bằng ổn định để phát triển sản xuất, chống ô nhiễm môi trường sinh thái.Vấn đề đặt ra khi đưa làng nghề vào sản xuất tập trung là Nhà nước không nên đầu tư diện rộng như các khu công nghiệp mà cần đầu tư chiều sâu cho khu công nghiệp-làng nghề, như xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, ban hành, hoàn thiện cơ chế, chính sách kích cầu …

Bởi lẽ, làng nghề truyền thống tập trung dưới hình thức khu công nghiệp làng nghề là một mô hình tổ chức sản xuất còn mới mẻ, cần thực thi nhiều giải pháp đồng bộ cùng sự quan tâm, nỗ lực từ nhiều phía. Đó là cơ sở, nền tảng để nghệ thuật trống đồng, nghề đúc đồng Đông Sơn trường tồn cùng thời gian.

Theo Tiến sĩ Đỗ Chung

Nguồn: http://yume.vn/docongkysuu/article/trong-dong-dong-son-tinh-hoa-dan-toc.35AB8E5D.html

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Giống khoai lang ở Việt Nam

FOODCROPS. Nguồn gen giống khoai lang trên thế giới. Nguồn gen giống khoai lang ở Việt Nam. Nguồn gốc và đặc tính chủ yếu của một số giống khoai langphổ biến trong sản xuất hiện nay Hoàng Long, Hưng Lộc 4, HL518 (Nhật đỏ), Kokey 14 (Nhật vàng), HL491 (Nhật tím), Murasa Kimasari (Nhật tím 1), HL284 (Nhật trắng), KB1

Nguồn gen giống khoai lang trên thế giới

Hầu hết những nước trồng nhiều khoai lang trên thế giới đều có bộ sưu tập nguồn gen giống khoai lang. Nơi lưu giữ nguồn gen khoai lang lớn nhất toàn cầu là Trung tâm Khoai tây Quốc tế (Centro Internacional de la Papa – CIP) với tổng số 7007 mẫu giống khoai lang được duy trì năm 2005. Trong số này có 5.920 mẫu giống khoai lang trồng (Ipomoea batatas) và 1087 mẫu giống khoai lang loài hoang dại (Ipomoea trifida và các loài Ipomoea khác). Việc duy trì nguồn gen ở CIP được thực hiện trong ống nghiệm, trên đồng ruộng, bảo quản bằng hạt và được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế.

Khoai lang Trung Quốc cho năng suất cao, chịu lạnh nhưng chất lượng không ngon so với khoai lang của Nhật, Mỹ khi trồng ở Việt Nam.

Khoai lang Mỹ nổi tiếng về chất lượng cao, phổ biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẽo và có hương vị thơm để tiêu thụ tươi như một loại rau xanh cao cấp và dùng trong công nghiệp thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn giống khoai lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị thơm; ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống.

Khoai lang Nhật cũng nổi tiếng về chất lượng cao với hướng chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá làm rau xanh, làm nước sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam đậm tự nhiên. Nhược điểm khoai lang Nhật khi trồng ở Việt Nam là thời gian sinh trưởng dài trên 115 ngày.(Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim 2006)

Nguồn gen giống khoai lang ở Việt Nam

Nguồn gen giống khoai lang Việt Nam chủ yếu được thu thập, đánh giá và bảo tồn tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật, thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam với 528 mẫu giống đã được tư liệu hoá (trong đó có 344 mẫu do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chuyển đến) Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm (FCRI) có 118 mẫu giống, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc hiện có 78 mẫu giống.. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có 30 mẫu giống. (Bảng 4.1).

Tại các tỉnh phía Bắc, các giống khoai lang trồng phổ biến hiện có: Hoàng Long, KB1, K51, Tự Nhiên. Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm (FCRI) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) trong 22 năm (1981-2003), đã tuyển chọn và giới thiệu 15 giống khoai lang tốt theo ba hướng chính: 1) Nhóm giống khoai lang năng suất củ tươi cao, chịu lạnh, ngắn ngày, thích hợp vụ đông, gồm K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, Cực nhanh. Những giống này chủ yếu được nhập nội từ CIP, Philippines, Trung Quốc, Liên Xô (cũ) trong giai đoạn 1980-1986 và tuyển chọn để tăng vụ khoai lang đông. 2) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, nhiều dây lá thích hợp chăn nuôi, gồm KL1, KL5, K51. Các giống này phát triển ở giai đoạn 1986-2000 trong chương trình hợp tác với CIP. 3) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, phẩm chất ngon. gồm việc phục tráng và chọn lọc giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu (Vũ Tuyên Hoàng, Mai Thạch Hoành 1986, 1992), Tự Nhiên (Trương Văn Hộ và ctv, 1999); tuyển chọn và phát triển giống khoai lang KB1 (Nguyễn Thế Yên, 2003).

Ở các tỉnh phía Nam các giống khoai lang hiên trồng phổ biến là HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), Murasa kimasari (Nhật tím) Kokey 14 (Nhật vàng), HL497 (Nhật cam), HL4, Hoàng Long, Chiêm Dâu, Trùi Sa, Bí Đà Lạt, Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Trùi Sa (Cần Sa), Khoai Sữa, Khoai Gạo.

Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (HARC) và Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh (NLU) trong 22 năm (1981-2003) đã tuyển chọn và giới thiệu 7 giống khoai lang có năng suất củ cao, phẩm chất ngon, thích hợp tiêu thụ tươi gồm Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt (1981), HL4 (1987), HL491, HL518 (1997). Các giống khoai lang chất lượng cao có dạng củ đẹp thuôn láng, được thị trường ưa chuộng có HL518, HL491, Kokey 14, Murasa kimasari..

Những năm gần đây, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh cũng đánh giá và tuyển chọn 24 giống khoai lang khảo nghiệm toàn cầu trong chương trình hợp tác với CIP và khảo sát các giống khoai lang nhiều dây lá , năng suất bột cao cho hướng chế biến cồn trong chương trình hợp tác với công ty Technova và công ty Toyota Nhật Bản (Hoàng Kim 2008).

Bảng 1: Nguồn gen giống khoai lang đã được đánh giá tại HARC và NLU (1993-2009)

Những giống khoai lang phẩm chất ngon đang được đánh giá và tuyển chọn trong đề tài “Thu thập, khảo sát, so sánh và phục tráng giống khoai lang tại huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai 2008-2010”. Đây là nội dung hợp tác giữa Sở Khoa học Công nghệ Đồng Nai, Viện Sinh học Nhiệt đới, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Phòng Nông nghiệp Xuân Lôc. Kết quả bước đầu có HL518, HL491, Kokey 14, HL284, HL536 (CIP 083-14), HL574 (Cao sản), HL585, HL597 (Hoàng Kim, Trần Ngọc Thùy, Trịnh Việt Nga, Nguyễn Thị Ninh 2009)

4.3 Nguồn gốc và đặc tính chủ yếu của một số giống khoai lang

Giống khoai lang HOÀNG LONG

Hoàng Long là giống khoai lang phổ biến ở Việt Nam. Nguồn gốc Trung Quốc nhập nội vào Việt Nam năm 1968. Giống do Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981). Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1981. Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.

Giống khoai lang HƯNG LỘC 4 (HL4)

HL4 là giống khoai lang phổ biến ở vùng Đông Nam Bộ. Nguồn gốc Việt Nam. HL4 là giống lai [khoai Gạo x Bí Dalat] x Tai Nung 57 do Trung tâm Nghiên cứu Thực Nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tạo chọn và giới thiệu (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim 1987). Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1987. Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 18 – 33 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đẹp, dây xanh phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng trung bình, nhiễm nhẹ sâu đục dây.

Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ)

Nguồn gốc: Giống HL518 do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản = CIP92031 = HL518 (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị.

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

Giống khoai lang KOKEY14 (Nhật vàng)
Nguồn gốc: Giống Kokey 14 có nguồn gốc Nhật Bản do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội năm 1997 từ Công ty FSA (Bảng 1). Giống được tuyển chọn và giới thiệu năm 2002 (Hoang Kim, Nguyen Thi Thuy 2003), hiện là giống phổ biến trong sản xuất ở các tỉnh Nam Bộ và bán nhiều tại các siêu thị.
Đặc tính nông học chủ yếu: Thời gian sinh trưởng: 110-120 ngày. Năng suất củ tươi: 15-34. tấn/ha; tỷ lệ chất khô 29-31%. chất lượng củ luộc ngon, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh, nhiễm nhẹ sùng (Cylas formicariu) và sâu đục dây (Omphisia anastomosalis) virus xoăn lá (feathery mottle virus), bệnh đốm lá (leaf spot: Cercospora sp), bệnh ghẻ (scab) và hà khoai lang (Condorus sp).
Giống khoai lang HL491 (Nhật tím)

Giống HL491 do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị..Đặc tính nông học chủ yếu: Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.
Giống khoai lang MURASAKIMASARI (Nhật tím 1)

Nguồn gốc: Giống Murasa Kimasari có nguồn gốc Nhật Bản, do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội năm 1994 từ Công ty FSA (Bảng 1). Giống tuyển chọn và giới thiệu năm 2002.(Hoang Kim, Nguyen Thi Thuy 2003) hiện được trồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bán tại các chợ đầu mối và siêu thị.
Đặc tính nông học chủ yếu: Thời gian sinh trưởng: 105-110 ngày. Năng suất củ tươi: 10-22. tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc khá ngon, vỏ củ màu tím sẫm, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây tím xanh, nhiễm nhẹ sùng và sâu đục dây.
Giống khoai lang HL284 (Nhật trắng)

HL284 thuộc nhóm giống khoai lang tỷ lệ chất khô cao, nhiều bột. Nguồn gốc AVRDC (Đài Loan) /Japan. Giống do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội, tuyển chọn và đề nghị khảo nghiệm năm 2000. Thời gian sinh trưởng 90-105 ngày. Năng suất củ tươi 18 – 29 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 28-31%, chất lượng củ luộc khá, độ bột nhiều hơn độ dẽo, vỏ củ màu trắng, thịt củ màu trắng kem, dạng củ đều, dây xanh, nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.

Giống khoai lang KB1

KB1 là giống khoai lang hiện đang phát triển ở vùng đồng bằng sông Hồng. Giống do Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm tuyển chọn và giới thiệu (Vũ Văn Chè, 2004). Bộ Nông nghiệp và PTNT đã công nhận giống năm 2004. Thời gian sinh trưởng 95 -100 ngày. Năng suất củ tươi 22 – 32 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-29%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng cam, thịt củ màu cam đậm, dạng củ hơi tròn, dây xanh, ngọn tím, nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.
 
TS. Hoàng Kim

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: FOODCROPS.VN Giống khoai lang ở Việt Nam , 16 April 2008, Hoang Kim
http://foodcrops.blogspot.com/2010/01/giong-khoai-lang-o-viet-nam.html

Những bài liên quan

Việt NamKhoai lang Atlas – CIP-collab
Kỳ tích từ cây lúa, củ khoai ở Hòn Ðất
Người Trung Quốc thuê đất Việt Nam trồng… khoai lang

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Những giống sắn phổ biến ở Việt Nam


CÂY LƯƠNG THỰC. Những giống sắn phổ biến trong sản xuất hiện nay ở Việt Nam có KM94. KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26, KM98-7, HL23, Xanh Vĩnh Phú và một số giống khác với tỷ lệ tương ứng là 75,54%, 5,4%, 4,50%, 3,24%, 2,70%, 1,44%, 1,08% , 2,70%, và 3,40% của tổng diện tích sắn thu hoạch toàn quốc năm 2008 là 556.000 ha, với năng suất bình quân 15,9 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 9,39 triệu tấn.

Gần đây diện tích trồng một số giống sắn mới triển vọng KM419, KM440, KM414, KM397, KM325, KM21-12 tăng nhanh cùng với những giống sắn cao sản ngắn ngày KM140, KM98-5, KM98-7. Đặc biệt là giống KM419 (sắn siêu bột, sắn siêu cao sản Nông Lâm, sắn giống, sắn cút lùn,) đang tăng rất nhanh. Những giống sắn mới có ưu điểm năng suất cao, cây thấp gọn đễ trồng dày, ngắn ngày, ít bệnh nên nông dân đã nhạy bén mua giống chuyển đổi, thay bớt diện tích giống sắn chủ lực KM94 có năng suất cao ổn định, nhiều bột nhưng cây cao tán rộng khó trồng dày, dài ngày và bị nhiễm bệnh chồi rồng.

Dưới đây là nguồn gốc , đặc điểm của năm giống sắn chủ lực trong sản xuất

Giống sắn KM 94

Tên gốc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn toàn quốc.

Giống KM94 có đặc điểm:

+ Thân xanh, hơi cong, ngọn tím, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,7%.
+ Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 %.
+ Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng.
+ Nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh chồi rồng và bệnh cháy lá.

Giống sắn KM 140

Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 2009 trên toàn quốc và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, hiện ước trồng trên 150.000 ha.

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%.
+ Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94

Giống sắn KM 98-5

Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên Giống KM98-5 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, hiện ước trồng trên 100.000 ha.

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh.
+ Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419
+ Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 39,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,5%.
+ Năng suất bột : 9,8 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 63 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Thời gian giữ bột tương đương KM94
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

Giống sắn KM98-1

Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= Rayong 72) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, hiện trồng trên 20.000 ha.

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím
+ Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,8%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %.
+ Năng suất bột : 8,9 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 66 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Bảo quản giống ngắn hơn KM94

Giống sắn SM 937-26

Nguồn gốc: Tên gốc SM937 của CIAT/Clombia được nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống SM937-26 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tạm thời năm 1995 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Giống KM98-5 được trồng nhiều tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 15.000 ha, hiện trồng trên 20.000 ha.

Đặc điểm giống:
+ Thân nâu đỏ, thẳng, không phân nhánh
+ Năng suất củ tươi: 32,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 37,9%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,9%.
+ Năng suất bột : 9,4 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 61 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Vỏ củ dày và cứng hơn KM94

Kỳ tới: Một số giống sắn mới triển vọng

TS. Hoàng Kim
Giảng viên chính Cây Lương thực Rau Hoa Quả
Khoa Nông học, Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Cú hích từ cánh đồng mẫu lớn


CÂY LƯƠNG THỰC Theo SGGP Online “Việt Nam luôn trong nhóm các quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo nhưng thu nhập của người trồng lúa vẫn ở mức rất thấp. Điệp khúc thiếu vốn, kỹ thuật, trúng mùa mất giá luôn đeo đẳng nông dân trồng lúa ở ĐBSCL nhiều năm qua… Làm thế nào để cải thiện thu nhập cho người trồng lúa, nâng tầm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo Việt Nam lên vị thế mới là mối quan tâm hàng đầu của ngành nông nghiệp. 2 vụ đông xuân và hè thu vừa qua ở ĐBSCL, mô hình cánh đồng mẫu lớn đạt hiệu quả rất khả quan, bước đầu giải được bài toán khó này.” (Cơ giới hóa nông nghiệp đang được triển khai rộng khắp tại ĐBSCL. Ảnh: KIM HẢI)

Nông dân phấn khởiNông dân Nguyễn Văn Cường ở xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang có 1ha lúa với thâm niên 2 vụ liên tiếp tham gia cánh đồng mẫu lớn cùng Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) phấn khởi nói: “Hiệu quả đem lại rất cao. Quan trọng nhất là nông dân quyết định được đầu ra của hạt lúa. Công ty cho ứng trước giống xác nhận, phân bón, nông dược và cử cán bộ kỹ thuật hỗ trợ quy trình sản xuất. Chúng tôi được lợi 3 vấn đề: Chi phí sản xuất giảm khoảng 3 triệu đồng/ha/vụ từ việc bớt lần phun thuốc, giống, công lao động…

Tiếp cận quy trình sản xuất mang tính bền vững, kỹ thuật cao. Đặc biệt là xóa điệp khúc trúng mùa rớt giá. Hiện nông dân thấy lúa có giá thì bán, nếu không thì lưu kho miễn phí”. Vụ đông xuân vừa qua, chi phí sản xuất 1kg lúa trên cánh đồng hơn 1.000ha tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giảm tới 30% so với canh tác nông hộ nhỏ lẻ. Với năng suất đạt 8 – 9 tấn/ha, giá bán từ 6.300 – 6.700 đồng/kg, gần 500 hộ dân tham gia đạt mức lợi nhuận rất cao, hơn 150%. Vụ hè thu này, có 684 nông hộ tham gia, năng suất bình quân đạt 6,1 tấn/ha, cao hơn 200kg so với các hộ canh tác nhỏ lẻ bên ngoài, giá thành sản xuất dưới 2.900 đồng/kg, giảm 300 đồng/kg.

Cánh đồng mẫu lớn đầu tiên của tỉnh Trà Vinh trong vụ hè thu vừa qua tại xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh có 302 nông hộ tham gia với diện tích 300ha cũng đạt hiệu quả ngoài mong đợi. Chi phí sản xuất chưa tới 2.100 đồng/kg, thấp hơn bên ngoài gần 900 đồng/kg. Tham quan cánh đồng mẫu lớn này, tiến sĩ Nguyễn Hữu Huân, Phó Cục trưởng Cục BVTV khẳng định: “Vụ hè thu mà năng suất đạt 7,5 tấn là thành công lớn. Năng suất cao nhờ hệ thống thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh, toàn cánh đồng xuống giống đồng loạt, sản xuất theo quy trình hiện đại, ít sâu bệnh…”. Ông Kiên Ninh, Chủ tịch UBND xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh nói: “Tham gia mô hình cánh đồng mẫu lớn thu nhập bà con được nâng lên 20%-30%. Điều này góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho nông dân, xây dựng nông thôn mới của địa phương”.

Chỉ mới phát động trong vụ lúa đông xuân và hè thu vừa qua, ĐBSCL có hơn 6.400 hộ tham gia với diện tích 8.200ha (riêng vụ hè thu là 7.800ha), kết quả hết sức khả quan. Tiến sĩ Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt phấn khởi: “Kết quả bước đầu như thế là rất tốt. Quan trọng nhất là mô hình được sự đồng thuận của bà con nông dân. Các doanh nghiệp như: AGPPS, Công ty Phân bón Bình Điền, Công ty Gentraco, Angimex… mạnh dạn đầu tư với lãi suất 0%, chủ yếu hướng đến lợi nhuận cho bà con nông dân.

“Tích tụ ruộng đất” theo hướng mới

Các chuyên gia xác định: Việc lúa gạo Việt Nam thua kém Thái Lan về chất lượng suốt thời gian dài vì chưa có vùng nguyên liệu đủ lớn để có thể chủ động về sản lượng xuất khẩu. Thực trạng sản xuất lúa gạo hiện nay chủ yếu dưới hình thức nhỏ lẻ, thiếu liên kết; cản trở việc áp dụng cơ giới hóa, khó áp dụng công nghệ nhằm tăng năng suất, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng; xây dựng thương hiệu… Đặc biệt là thất thoát sau thu hoạch rất lớn, khoảng 13,7%, tương đương 635 triệu USD/năm, ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người trồng lúa…

Vua lúa giống Dương Văn Châu (Năm Châu) ở xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh phản ánh: “Để nông dân có lợi hơn thì nhất thiết phải tổ chức lại quy trình sản xuất một cách chuyên nghiệp. Việc tập hợp nông dân tham gia các cánh đồng lớn, cùng làm một vài giống lúa tốt, thích ứng biến đổi khí hậu… là rất cần thiết. Doanh nghiệp đứng ra cung ứng giống, vật tư nông nghiệp, kỹ thuật sản xuất rồi bao tiêu sản phẩm… Có như thế nông dân mới giảm được chi phí đầu tư, có điều kiện áp dụng cơ giới hóa, giảm thất thoát, hạn chế các khâu trung gian, tăng lợi nhuận trên cánh đồng của mình. Doanh nghiệp thì được lượng hàng hóa lớn, chất lượng cao, bán được giá…”.

Nông dân tham gia cánh đồng mẫu lớn tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang được bao tiêu sản phẩm. Ảnh: BÌNH ĐẠI

Theo ông Huỳnh Văn Thòn, Tổng giám đốc AGPPS, đơn vị tiên phong trong việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn tại ĐBSCL: “Nếu không có lợi thì việc xây dựng cánh đồng mẫu chỉ để lấy tiếng, không mở rộng được. Với việc sản xuất theo quy trình của công ty, hạt lúa có chất lượng, thương hiệu, địa chỉ xuất xứ nên giá bán cao hơn vài chục USD trở lên, từ đó phân phối lại giá trị lợi nhuận cho bà con nông dân”. Hiện ngoài nhà máy sấy lúa công suất 500 tấn/ngày và kho chứa 35.000 tấn tại huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; AGPPS vừa đầu tư thêm 2 nhà máy sấy lúa và kho chứa tại huyện Thoại Sơn (An Giang) và Tân Hồng (Đồng Tháp). Trong tháng 9-2011 sẽ xây dựng thêm một nhà máy sấy lúa ở huyện Vĩnh Hưng (Long An) với công suất 1.000 tấn/ngày cùng cánh đồng mẫu lớn tại các địa phương này.

Ông Đoàn Minh Triết, Phó chủ tịch UBND huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cho biết: “Địa phương đang triển khai đề án thí điểm mô hình xóa bờ thửa – sản xuất lớn quy mô 200ha. Theo đó, sẽ thành lập một công ty nông nghiệp huy động nông dân hùn đất, góp vốn bằng tiền để có diện tích ruộng lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận”. Tại huyện Tam Nông (Đồng Tháp), mô hình công ty nông nghiệp cũng vừa ra đời theo hướng “dồn điền, đổi thửa”. Trước mắt, năm 2012, các địa phương ở ĐBSCL đăng ký thực hiện các cánh đồng mẫu lớn khoảng 70.000ha.

BÌNH ĐẠI

“Mục tiêu của việc xây dựng các cánh đồng mẫu lớn là kết hợp bà con nông dân cùng nhau sản xuất; đặc biệt là các nông hộ sản xuất nhỏ, ít am hiểu kỹ thuật, thiếu vốn… Việc tích tụ ruộng đất hình thành các cánh đồng lớn không phải từ một vài người mua gom đất mà hàng trăm nông dân vẫn làm được do liên kết lại, phối hợp tốt với các doanh nghiệp. Về phía nhà nước cần mạnh dạn đầu tư cơ sở hạ tầng, cấu trúc nông thôn, hệ thống thủy lợi nội đồng, đê bao chống lũ… để mô hình này phát triển trọn vẹn”

TS Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt Bộ NN-PTNT

Xem tiếp:

Xây dựng cánh đồng lúa mẫu lớn

TINKHOAHOC. GSTS. Nguyễn Văn Luật. “Ngày nay, phong trào xây dựng cánh đồng lúa mẫu lớn (CĐML) thực hiện bởi bà con nông dân Nam bộ đang nở rộ, mặc dầu mới thực hiên mấy năm nay. Có thể thấy ngay rằng phong trào này đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất lúa vừa để tăng thu nhập cho bà con nông dân, vừa để thóat ra khỏi tình trạng sản xuất lúa bằng mọi giá trong khi ta có gạo xuất khẩu năm sau luôn cao hơn năm trước, và năm nay, 2011, sẽ vượt 7 triệu tấn. Diện tích các mô hình CĐML tiêu biểu hàng ngàn ha ở nhiều tỉnh trong vùng như An Giang; Đống Tháp, Long An; TP Cần Thơ, Hậu Giang Tây Ninh; đăc biêt là ở Sóc Trăng với 1 giống ST5 trên diện tích gần 2 vạn ha, cánh đồng dùng giống lúa kháng mặn OM6976 trên 2 vạn ha. Nhiều giống lúa cao sản cực sớm dưới 90 ngày cũng đươc giới thiệu vào sản xuất, không chỉ những giống OMCS từ Viện Lúa ĐBSCL, mà còn từ nhiều cơ quan khác, như từ Đại học Cần thơ có MTL 631, MTL có 740.., từ Viện NC Cây lương thực thuộc VASS có P6 đột biến…”

TỪ CÁNH ĐỒNG LÚA 10 TẤN Ở MIỀN BẮC ĐẾN CÁNH ĐỒNG LÚA MẪU LỚN Ở NAM BỘ

GSTS. Nguyễn Văn Luật

Từ giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, ở miền Bắc có phong trào làm cánh đồng 1 ha đạt 5 tấn thóc với các giống lúa địa phương cao cây yếu chịu phân bón, năng suất cao “đáng nể” cũng chỉ đạt 3,5 – 4 tấn/ha. Tiếp theo là 10 tấn thóc 1 ha với vụ lúa xuân bằng giống lúa mới từ nguồn địa phương, do Cố AHLĐ Lương Định Của lai tạo, và nhập nội từ Trung Quốc và từ Viện Lúa Quốc tế (IRRI). Hồi đó, giống mới và tiến bộ kỹ thuật cùng với phân hóa học và thuốc sát trùng còn rất hiếm. Chỉ tiêu 5 tấn, 10 tấn lúc đó là rất “táo bạo”, nhưng bà con nông dân với sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương và chỉ đạo kỹ thuật của ngành nông nghiệp đã đạt, khởi đầu ở hợp tác xã nông nghiệp Tân Hưng Hòa, nơi sản sinh AHLLVT Nguyễn Thị Chiên và cố AHLĐ Trương An Điềm, ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, rồi lan tỏa ra cả miền Bắc, góp phần tích cực vào phòng trào tất cả vì tiền tuyến chống ngọai xâm..

Phong trào thâm canh lúa với ngọn cờ cánh đồng 10 tấn trên để lại cho ngày nay khá nhiều kinh nghiệm sản xuất lúa hữu cơ thuộc lọai giá cao, lợi nhuận cao, vì không tốn tiền mua phân bón và thuốc sát trùng, bằng cách nuôi thả bèo hoa dâu; làm đất ải; giữa 2 vụ lúa luân canh với cây vụ đông như khoai tây, rau đậu ôn đới.. Ta có tiềm năng phát triển dần nền sản xuất lúa hữu cơ, do đội ngũ lao động nông nghiệp có kinh nghiệm; và ta chưa tập trung nghiên cứu với đầu tư cao quy trình công nghệ giảm thiểu năng lương hóa thạch không tái tạo như phân hóa học, thuốc sát trùng, thay bằng sản xuất bèo hoa dâu, tạo chọn giống bèo kháng sâu bằng tạo chọn giống truyền thống và công nghệ di truyền, nghiên cứu phát triển cây ôn đới cho vụ vụ đông, phát triển thuốc sát trùng sinh học như nấm OMETAR trừ sâu mà Ts Nguyễn Thị Lộc vừa được giải thưởng Kovalepxkaya do đề xuất giống nấm trắng và quy trình sản xuất thích hợp. Sản xuất lúa theo hướng một nền nông nghiệp hữu cơ với trình độ cao lúc đầu khá tốn kém, nhưng đúng hướng, và hòa nhập với trào lưu thế giới phát triển năng lượng điện gió, điện sóng, địa nhiệt, biogaz, sử dụng năng lượng mặt trời.., thay cho điện từ năng lượng không tái tạo ở các nhà máy nhiệt điện trong khi nguồn dầu lửa và than đá ngày một cạn kiệt; điện nguyên tử ẩn chứa đầy nguy hiểm như ở Nhật Bản vừa xẩy ra, và ở Liên Xô trước đây, và hậu quả nhãn tiền là biến đổi khí hậu ngày một diễn biến phức tạp.

Ngày nay, phong trào xây dựng cánh đồng lúa mẫu lớn (CĐML) thực hiện bởi bà con nông dân Nam bộ đang nở rộ, mặc dầu mới thực hiên mấy năm nay. Có thể thấy ngay rằng phong trào này đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất lúa vừa để tăng thu nhập cho bà con nông dân, vừa để thoat ra khỏi tình trạng sản xuất lúa bằng mọi giá trong khi ta có gạo xuất khẩu năm sau luôn cao hơn năm trước, và năm nay, 2011, sẽ vượt 7 triệu tấn. Diện tích các mô hình CĐML tiêu biểu hàng ngàn ha ở nhiều tỉnh trong vùng như An Giang; Đống Tháp, Long An; TP Cần Thơ, Hậu Giang Tây Ninh; đăc biêt là ở Sóc Trăng với 1 giống ST5 trên diện tích gần 2 vạn ha, cánh đồng dùng giống lúa kháng mặn OM6976 trên 2 vạn ha. Nhiều giống lúa cao sản cực sớm dưới 90 ngày cũng đươc giới thiệu vào sản xuất, không chỉ những giống OMCS từ Viện Lúa ĐBSCL, mà còn từ nhiều cơ quan khác, như từ Đại học Cần thơ có MTL 631, MTL có 740.., từ Viện NC Cây lương thực thuộc VASS có P6 đột biến…

Theo Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và PTNT: “Xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn’ là bước 1; bước hai sẽ “Xây dựng vùng nguyên liệu xuất khẩu”; bước ba “Vùng ngyên liệu xuất khẩu sản xuất theo VietGAP”. Có nhiều quy định khá cụ thể, như sản xuất lúa trên CĐML sử dụng giống lúa xác nhận; cơ giới hóa làm đất 100%; gieo sạ hàng đồng lọat; bón phân cân đồi; dùng thuốc BVTV chế phẩm sinh học, dùng thuốc hóa học khi thật cần thíêt; cơ giới hóa thu họach 100%; Phơi sấy đạt yêu cầu. Thực hiện đầy đủ những quy định trên sẽ đưa quy trình công nghệ sản xuất lúa hàng hóa lên tầm cao mới, như quy trình gọi tắt là “Ba không”: không còn cúi cấy mà dùng máy cấy và dụng cụ sạ lúa theo hàng; không gặt bằng tay mà dùng máy gặt đập liên hợp và máy gặt rải hàng; không phơi lúa mà sấy.

Lợi ích của người nông dân được quan tâm. Ngay những năm đầu xây dựng CĐML, ngòai các chương trình tập huấn do tổ chức khuyến nông của Trung tâm Khuyến nông QG thực hiện, bà con nông dân còn nhận được sự hỗ trợ phần nào về phân bón, thuốc BVTV, tiền vận chuyển đến kho của một số công ty, tiền lưu kho, như Cty CP BVTV AG; Cty XN khẩu AG, Cty Lương thực AG, Cty CP phân bón Đầu Trâu Bình Điền ..

Theo TGĐ AHLĐ Hùynh Văn Thòn, Cty CP BVTV An Giang đang thực hiện chương trình cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cùng với “nhịp cầu nhà nông”; vừa khởi công xây dựng nhà máy chế biến gạo Thọai Sơn có công suất 200.000 tấn gạo/năm, và sẽ khởi công xây dựng nhà máy chế biến gạo Vĩnh Hưng, Long An vào qúy III năm 2011. TGĐ Lê Quốc Phong bày tỏ sự vui mừng được góp phần xây dựng mô hình CĐML với tinh thần đồng hành tích cực nhất, sẽ tổ chức đưa 60 nông dân sản xuất giỏi ở các tỉnh Nam bộ đi tham quan học tập ở Viện Lúa QT (IRRI) tại Philipines

Nông dân trồng lúa ở ĐBSCL, cũng như cả nước sẽ rất vui nếu bà con sau này chỉ phải lo sản xuất lúa đến gặt, còn doanh nghiệp lo các khâu sấy lúa, lưu kho, chế biến và tiếp thị. Nước bạn Malaysia đã làm được việc này Trong một cuộc tham quan ở Malaysia chúng tôi đã quan sát từ khâu gặt lúa bằng máy, chuyển về kho của Cty, bà con nông dân không phải chờ lâu đã nhận được kết quả phân tích độ sạch, độ ẩm của lúa, và nhận tiền bán lúa ướt qua ATM. Khi mua gạo ăn, người đã bán lúa được giảm giá 40%.

Trình độ và mức độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa cần được nâng cao. Trong phạm vi cả nước, hiện chúng ta có 2 đơn vị lớn nghiên cứu về lúa đã đạt được nhiều thhttp://www.blogger.com/img/blank.gifành tựu phục vụ sản xuất lúa là Viện Lúa ĐBSCL và Viện NC Cây lương thực ở Hải Dương, đều thuộc hệ thống thuộc Viện KHKTNN Việt Nam. Đến nay, Viện Lúa ĐBSCL mới làm được việc này trên 200 ha nhân giống lúa được khỏang 30-40%. Chúng tôi chúc 2 Viện này sẽ đạt 100% CNH và HĐH sản xuất lúa trong một ngày gần đây, và nhanh chóng trở thành điểm đột phá hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, công nghệ cao thực sự, áp dụng có hiệu quả cao công nghệ sinh học bao gồm công nghệ di truyền chuyển nạp gene tạo giống mới; công nghệ thông tin, bao gồm điều khiển học trong sử dụng các máy nông nghiệp tự động.. Chúng tôi đã được tham quan sự vận hành những máy này ở một số nước phát triển, như Úc,Ý,Nhật

GSTS. Nguyễn Văn Luật

Vinh danh hạt ngọc Việt

Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Vinh danh hạt ngọc Việt

NGỌC PHƯƠNG NAM.  Festival Lúa gạo Việt Nam lần thứ 2 tại Sóc Trăng  từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 11 năm 2011. Lễ hội Vinh danh hạt ngọc Việt môi trường xanh cho cánh đồng vàng. Một số hình ảnh đêm khai mạc tại Hồ nước ngọt số 2 đường Hùng Vương. Chương trình được THTT trên sóng của Đài Truyền hình Quốc gia và các Đài Truyền hình địa phương. Một số hình ảnh trực tiếp tại lễ khai mạc, ảnh của Hoàng Kim

[Video] Lễ khai mạc festival lúa gạo lần 2 tại Sóc Trăng

Hội thảo Định vị thương hiệu lúa gạo Việt Nam
Gạo Việt Nam Ai bán? Ai mua

GS. TS. Bùi Chí Bửu
Phát biểu đề dẫn (xem tại đây)

Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Giống lúa cho miền Trung, Tây Nguyên



CÂY LƯƠNG THỰC
. Trần Văn Mạnh 2011. Trung tâm Khảo Kiểm nghiệm Giống, Sản phẩm Cây trồng và Phân bón Quốc gia vùng miền Trung và Tây Nguyên “Báo cáo tình hình sử dụng giống lúa và giới thiệu một số giống lúa triển vọng tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên”. Diễn đàn Khuyến nông và Nông nghiệp lần thứ 5 – 2011 chuyên đề sản xuất và cung ứng giống lúa các tỉnh phía Nam. Bộ giống lúa chủ lực trong sản xuất hiện nay ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ:* Lúa thường: các giống 13/2 (IR17494), Xi23 (nhóm dài ngày); ĐB 6, TB-R1, KD đột biến, ĐV108, HT1, Q5, ML48, ML202, IR64, VND95-20. (nhóm trung ngày); Lúa cạn: LC93-1, LC93-4; * Lúa lai: Nhị ưu 838, BT-E1, Nông ưu 28, Syn6, Nghi Hương 2308; Bộ giống lúa chủ lực trong sản xuất hiện nay ở Tây Nguyên:* Lúa thường: các giống 13/2 (IR17494), Xi23 (nhóm dài ngày); ĐB 6, TB-R1, KD đột biến, ĐV108, HT1, Q5, ML48, ML202, IR64, VND95-20. (nhóm trung ngày); Lúa cạn: LC93-1, LC93-4; * Lúa lai: Nhị ưu 838, BT-E1, Nông ưu 28, Syn6, Nghi hương 2308. (Đánh giá giống lúa ở Ninh Thuận, ảnh Hoàng Kim).

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG GIỐNG LÚA VÀ GIỚI THIỆU MỘT SỐ GIỐNG LÚA MỚI CÓ TRIỂN VỌNG TẠI VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN

Trần Văn Mạnh
Trung tâm Khảo Kiểm nghiệm Giống, Sản phẩm Cây trồng và Phân bón Quốc gia vùng miền Trung và Tây Nguyên

1.ĐẶT VẤN ĐỀ

Vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên là 2 vùng sinh thái đặc thù có nhiều tiềm năng đa dạng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành Trồng trọt nói riêng. Trong sản xuất trồng trọt, lúa là cây trồng chủ lực cung cấp lương thực chủ yếu, hàng năm diện tích lúa toàn vùng (từ Đà Nẵng đến Khánh Hoà và 5 tỉnh Tây Nguyên) chiếm khoảng 600.000 ha với sản lượng đạt 3.000.000 tấn/năm. Chính vì vậy, sản xuất cây lúa trong vùng được các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học cả nước đặc biệt quan tâm từ việc nghiên cứu đến công tác chỉ đạo đưa các tiến bộ kỹ thuật vào áp dụng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón vùng miền Trung – Tây Nguyên là đơn vị làm công tác Khảo nghiệm VCU và DUS giống cây trồng mới; Chứng nhận chất lượng giống cây trồng cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.

Sau đây, chúng tôi xin tóm lược về tình hình sử dụng giống và giới thiệu một số giống cây trồng mới triển vọng tại vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên trong thời gian qua như sau:

2. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG GIỐNG LÚA TRONG CƠ CẤU SẢN XUẤT TẠI VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN

a. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ (Đà Nẵng – Khánh Hoà): Hiện nay, phần lớn nông dân sản xuất lúa trong vùng (các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định) đã có thói quen sử dụng hạt giống kỹ thuật (Nguyên chủng, Xác nhận, hạt lai F1) để gieo trồng. Riêng các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà tỷ lệ nông dân sử dụng hạt giống kỹ thuật còn rất thấp, chủ yếu chỉ mua giống 1 vụ sau đó tự sản xuất và làm giống cho nhiều vụ liên tiếp. Về cơ cấu giống lúa trong sản xuất phần lớn là các giống lúa thường chiếm trên 90% diện tích; lúa lai thương phẩm chỉ chiếm 8- 9% diện tích.

Vụ Đông Xuân với diện tích trồng lúa hàng năm khoảng 170.000 ha, nếu nông dân sử dụng 100% hạt giống lúa kỹ thuật để gieo cấy thì lượng giống cần cung ứng khoảng từ 12.000- 17.000 tấn giống/vụ. Vụ Hè Thu và vụ Mùa, diện tích lúa gieo cấy trong vùng khoảng 180.000- 200.000 ha, với lượng giống kỹ thuật cần cung ứng ước khoảng 9.000- 12.000 tấn/vụ (Nếu nông dân sử dụng 100% hạt giống kỹ thuật để gieo trồng thì lượng hạt giống cần đáp ứng từ 15.000- 20.000 tấn/vụ).

Như vậy, để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất lúa ở 2 vụ Đông Xuân và Hè thu thì lượng hạt giống kỹ thuật có chất lượng tốt cần thiết cho sản xuất trong vùng từ 20.000- 30.000 tấn hạt giống lúa.

Bộ giống lúa chủ lực trong sản xuất hiện nay:
– Lúa thường: các giống Xi23, NX30, BM9855, 13/2 (IR17494), BC15 (nhóm dài ngày); ĐB 6, TB-R1, KD đột biến, ĐV108, HT1, Q5, ML48, ML68, ML202, TH41, ML203, ML214 (nhóm trung ngày).
– Lúa lai: Nhị ưu 838, BT-E1, Nghi hương 2308.

b. Vùng Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng): Cơ cấu giống lúa trong sản xuất phần lớn là các giống lúa thường chiếm trên 90% diện tích; lúa lai thương phẩm chỉ chiếm 8- 10% diện tích tuỳ từng tiểu vùng. Diện tích lúa trong vùng sử dụng hạt giống kỹ thuật để sản xuất nhìn chung còn chiếm tỷ lệ thấp. Vì vậy, cần có các chính sách giúp nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật đồng bộ vào sản xuất thâm canh lúa mà trong đó việc sử dụng giống kỹ thuật cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Vụ Đông Xuân, Hè Thu và vụ Mùa với tổng diện tích gieo cấy hàng năm khoảng 200.000 ha, vậy nhu cầu giống kỹ thuật cho gieo cấy 100% diện tích trên ước khoảng 16.000- 20.000 tấn hạt giống.

Bộ giống lúa chủ lực trong sản xuất hiện nay:
– Lúa thường: các giống 13/2 (IR17494), Xi23 (nhóm dài ngày); ĐB 6, TB-R1, KD đột biến, ĐV108, HT1, Q5, ML48, ML202, IR64, VND95-20. (nhóm trung ngày); Lúa cạn: LC93-1, LC93-4.
– Lúa lai: Nhị ưu 838, BT-E1, Nông ưu 28, Syn6, Nghi Hương 2308.

3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, CUNG ỨNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG GIỐNG TẠI VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN

Thống kê sơ bộ trên địa bàn vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên trong năm 2010 có trên 40 đơn vị tham gia sản xuất hạt giống cây trồng, với diện tích sản xuất khoảng 2.500 ha, sản lượng hạt lúa giống thu được ước đạt khoảng 13.000 tấn, đã đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất trong vùng và chuyển ra các tỉnh phía Bắc.

Trong 6 tháng đầu năm 2011, có 15 đơn vị sản xuất kinh doanh hạt giống đăng ký kiểm định ruộng giống, kiểm nghiệm chứng nhận chất lượng giống cây trồng với Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón vùng miền Trung- Tây Nguyên. Tổng diện tích ruộng giống đã qua kiểm định là 1.115 ha bao gồm các cấp giống: siêu nguyên chủng, nguyên chủng, xác nhận và hạt lai F1. Lượng hạt giống qua kiểm nghiệm chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn ước tính: cấp nguyên chủng, xác nhận 5.000 tấn; Hạt giống lai F1 là 470 tấn.

4. GIỚI THIỆU MỘT SỐ GIỐNG LÚA MỚI CÓ TRIỂN VỌNG

1. Lúa lai:

1.1. Giống lúa lai 3 dòng Phú ưu số 4: Do Công ty TNHH Khoa học kỹ thuật Trung Chính chọn tạo chọn tạo từ tổ hợp lai: Nhị 32A/Gia hội 978. Giống Phú ưu số 4 là giống cảm ôn, có TGST trong vụ ĐX 115 – 120 ngày, vụ HT 110 – 115 ngày; Chiều cao cây 98 – 100 cm; số hạt/bông 145 – 155 hạt, tỷ lệ lép 12 – 15%; khối lượng 1.000 hạt 27 – 28g; Năng suất từ 65 – 70 tạ/ha; dạng hạt bầu, chất lượng gạo khá, nhiễm nhẹ các loại sâu bệnh hại chính; khả năng chịu rét khá, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo trồng vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên chân đất vàn, vàn thấp chịu thâm canh. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.2. Giống lúa lai 3 dòng Bio404: Do Công ty TNHH một thành viên Bioseed nhập nội và khảo nghiệm. Giống Bio404 có TGST trong vụ ĐX 120 – 125 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; Chiều cao cây 98 – 100 cm; Số hạt chắc/ bông 135 – 140 hạt, tỷ lệ lép 15 – 16%; Năng suất từ 70 – 80 ta/ ha, thâm canh đạt 90 – 95 tạ/ha; Dạng hạt dài, chất lượng gạo khá, cơm mềm và thơm ngon; Ít nhiễm rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, chịu rét khá, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất tốt, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50kg/ha.

1.3. Giống lúa lai 3 dòng XL94017: Do Công ty Bayer Việt Nam nhập nội và khảo nghiệm. Giống XL94017 có TGST vụ ĐX120 – 125 ngày, HT 105 – 110 ngày; chiều cao cây 105 – 110 cm; Số hạt chắc/ bông 125 – 130 hạt, tỷ lệ lép 20 – 22%; Năng suất từ 70 – 80 ta/ ha, thâm canh đạt 85 – 90 tạ/ha; Dạng hạt dài, chất lượng gạo khá, cơm mềm và thơm ngon; Ít nhiễm rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn cao, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50kg/ha.

1.4. Giống lúa lai 3 dòng Quốc hào 5: Công ty Cổ phần tập đoàn Điện Bàn nhập nội từ Trung Quốc đưa vào khảo nghiệm và cung ứng tại Việt Nam. Giống Quốc hào 5 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 100 – 105 ngày; Chiều cao cây 95 – 110 cm; Số hạt chắc/bông 90 – 95 hạt, tỷ lệ lép 20 – 25%; Khối lượng 1.000 hạt 28 – 32g; Năng suất từ 70 – 75 ta/ ha; thâm canh đạt 80 – 85 tạ/ha; Dạng hạt dài, chất lượng gạo khá, cơm mềm và thơm ngon; Ít nhiễm rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, cứng cây chống đổ tốt.
Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất tốt, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50kg/ha.

1.5. Giống lúa lai 3 dòng LS1: Do Công ty Cổ phần giống cây trồng Lạng Sơn nhập nội từ Trung Quốc đưa vào khảo nghiệm. Giống LS1 có TGST vụ ĐX 120- 125 ngày; Chiều cao cây 108 – 112 cm; Số hạt chắc/ bông 140 – 150 hạt, tỷ lệ lép 5 – 7%; Năng suất trung bình từ 80 – 85 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 90- 95 tạ/ha; Dạng hạt bầu, chất lượng gạo trung bình; Ít nhiễm sâu bệnh hại chính, chống đổ tốt.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất tốt, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40- 50kg/ha.

1.6. Giống lúa lai 3 dòng Nhị ưu 986: Do công ty TNHH giống cây trồng Minh Phong, Phúc Kiến Trung Quốc lai tạo, Công ty cổ phần Nông nghiệp Kỹ thuật cao Hải Phòng nhập nội đưa vào khảo nghiệm. Giống Nhị ưu 986 có TGST vụ ĐX 115 – 120 ngày, HT 105 – 110 ngày; Chiều cao cây 105 – 110cm; Số hạt chắc/ bông 105 – 110 hạt, tỷ lệ lép 15 – 20%; Năng suất từ 70 – 80 ta/ ha; thâm canh đạt 90 – 95 tạ/ha; Dạng hạt bầu, chất lượng gạo trung bình khá; Ít nhiễm rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, chịu nóng khá, chống đổ tốt.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất tốt, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50kg/ha.

1.7. Giống lúa lai 3 dòng Nhị ưu 838 KBL: Do Công ty CP Giống cây trồng miền Nam đưa vào khảo nghiệm. Giống Nhị ưu 838 KBL có TGST vụ ĐX 115 – 120 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; Chiều cao cây 108 – 110 cm; Số hạt chắc/ bông 105 – 110 hạt, tỷ lệ lép 18 – 20%; Năng suất từ 70 – 75 tạ/ha, thâm canh đạt 80 – 85 tạ/ha; Dạng hạt bầu, chất lượng gạo khá, cơm ngon trung bình; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất tốt, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.8. Giống lúa lai 2 dòng TH3-3: Do PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm, ThS. Trần Văn Quang và CTV Viện Công nghệ sinh học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội chọn tạo. Giống TH3-3 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 90 – 95 ngày; Năng suất 55 – 60 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Chất lượng gạo khá, cơm mềm; Nhiễm nhẹ rầy nâu, nhiễm nhẹ bệnh khô vằn, ít nhiễm bệnh đạo ôn; Cứng cây chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn cao, thâm canh trung bình. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.9. Giống lúa lai 2 dòng Việt Lai 20: Do PGS.TS. Nguyễn Văn Hoan, Vũ Hồng Quảng và CTV Trường Đại học Nông nghiệp I chọn tạo. Giống Việt lai 20 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, HT 90 – 95 ngày; Năng suất 65 – 75 tạ/ha, thâm canh đạt 80 – 85 tạ/ha; Chất lượng gạo khá, phẩm chất cơm khá; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chịu nóng khá, chịu mặn khá, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì trung bình, đất vàn, đất ven biển. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.10. Giống lúa lai 3 dòng Nghi Hương 2308: Là giống lúa lai Trung Quốc nhập nội vào Việt Nam. Giống Nghi hương 2308 có TGST vụ ĐX 118 – 123 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; Năng suất 70 – 75 tạ/ha, thâm canh đạt 80 – 85 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, cơm thơm ngon; Nhiễm rầy nâu trung bình, ít nhiễm bệnh đạo ôn, khôn vằn; Chống đổ khá, chịu lạnh khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.11. Giống lúa lai PAC807: Do Công ty Cổ phần giống cây trồng miền Nam nhập nội từ Ấn Độ. Giống có TGST vụ ĐX 108 – 113 ngày, vụ HT 103 – 108 ngày; số hạt/bông 145 – 150 hạt, tỷ lệ lép 12 – 15%; Năng suất trung bình 65 – 70 tạ/ha, chất lượng gạo khá, com mềm; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có dộ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.12. Giống lúa lai 3 dòng HYT100: Giống lúa lai 3 dòng HYT100 do trung tâm Nghiên cứu và phát triển lua lai, Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam lai toạ năm 1999. Giống HYT100 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; khối lượng 1.000 hạt 26 – 27gam; dạng hạt dài; Năng suất trung bình 60 – 65 tạ/ha; chất lượng gạo khá, com thơm ngon, có vị đậm.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn cao, vàn và vàn thấp, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.13. Giống lúa lai 3 dòng PHB71: Giống lúa lai 3 dòng PHB71 do Công ty Pioneer Hi-Bred Internatitional – Hoa Kỳ lai tại, được nhập nội vao Việt Nam từ Ấn Độ. Giống PHB71 thuộc nhóm ngắn trung ngày. Năng suất trung bình từ 60 – 70 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 80 – 85 tạ/ha; Chất lượng gạo khá, cơm mềm, và ngon; Chống chịu tốt bệnh dạo ôn, nhiễm trung bình rầy nâu.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn cao, vàn và vàn thấp, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

1.14. Giống lúa lai HR3: Giống HR3 do TS. Nguyễn Như Hải và cộng sự – Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia lai tạo. Giống HR3 có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm chín sớm. Năng suất trung bình đạt từ 60 – 70 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 80 tạ/ha; chất lượng cơm khá; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn cao, vàn và vàn thấp, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 40 – 50 kg/ha.

2. Lúa thường

2.1. Giống BC15: Do KS. Đặng Tiểu Bình, Trung tâm Khảo nghiệm và Khuyến nông Thái Bình, được Công ty Cổ phần giống cây trồng Thái Bình mua bản quyền, chọn lọc và đăng ký khảo nghiệm. Giống BC15 có TGST vụ ĐX 120 – 125 ngày, vụ HT 115 – 1120 ngày; nhiễm nhẹ rầy nâu, đạo ôn cổ bông, bệnh khô vằn; hơi yếu cây; khối lượng 1000 hạt đạt 26 – 27 gam; dạng hạt trung bình; Năng suất trung bình 65 – 70 tạ/ha, thâm canh cao đạt 80 tạ/ha; chất lượng gạo khá, cơm ngon.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn cao, vàn và vàn thấp, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 80 – 100 kg/ha.

2.2. Giống PC10: Do Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm chọn tạo từ tổ hợp lai Khang dân/MTL195. Giống PC10 có TGST từ 105 – 110 ngày; chiều cao cây 95 – 100cm; số hạt/bông 130 – 135 hạt, tỷ lệ lép 12 – 15%; khối lượng 1.000 hạt 23 – 24g; Năng suất trung bình 55 – 60 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 70 tạ/ha; chất lượng gạo khá, com mềm và thơm; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ tốt.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất khác nhau, là giống chịu thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 80 – 100 kg/ha.

2.3. Giống ML202: Do Trại giống lúa Ma lâm, Trung tâm Giống cây trồng tỉnh Bình Thuận chọn tạo và đưa vào khảo nghiệm. Giống ML202 có TGST vụ ĐX 112 – 117 ngày, vụ HT 95 – 100 ngày; Chiều cao cây 100 – 102 cm; Số hạt chắc/ bông 99 – 105 hạt, tỷ lệ lép 10 – 15%; Năng suất 60 – 65 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Nhiễm nhẹ rầy nâu, ít nhiễm bệnh đạo ôn và khô vằn; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn cao, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 80 – 100 kg/ha.

2.4. Giống RNT3: Do TS. Lưu Văn Quỳnh và cộng sự Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam trung bộ chọn lọc từ giống ML202 theo hướng kháng rầy nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá. Giống RNT3 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 93 – 98 ngày; Năng suất 65 – 70 tạ/ha, thâm canh đạt 75 – 80 tạ/ha; Ít nhiễm rầy nâu, bệnh đạo ôn và khô vằn; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn cao, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 80 – 100 kg/ha.

2.5. Giống SH14: Do Viện cây lương thực, cây thực phẩm chọn tạo và đưa vào khảo nghiệm. Giống SH14 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 103 – 108 ngày; Chiều cao cây 105 – 112 cm; Năng suất 60 – 65 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.6. Giống MT36: Do Công ty TNHH giống cây trồng miền Trung chọn lọc và đưa vào khảo nghiệm. Giống MT36 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 103 – 108 ngày; Năng suất 60 – 70 tạ/ha, thâm canh đạt 75 – 80 tạ/ha; Chất lượng gạo trung bình, cơm ngon trung bình; Nhiễm bệnh đạo ôn trung bình, nhiễm nhẹ khô vằn đốm nâu, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn trung bình. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.7. Giống OM4495: Do Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu và cộng tác viên Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long chọn tạo. Giống OM4495 có TGST vụ ĐX 105 – 110 ngày, vụ HT 95 – 100 ngày; Năng suất 50 – 60 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, cơm dẻo và ngon; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, hơi yếu cây, chống đổ trung bình.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất cao, chủ động tưới tiêu, thâm canh trung bình. Lượng giống gieo sạ 80 – 100 kg/ha.

2.8. Giống P13: Do Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm chọn tạo. Giống P13 có TGSt 115 – 120 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; Chiều cao cây 110 – 115 cm; Số hạt chắc/bông 130 – 140 hạt; Năng suất 55 – 60 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, hạt gạo dài trong, cơm ngon, dẻo và có mùi thơm nhẹ; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn trung bình, thâm canh khá. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.9. Giống SH.2: Do Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm chọn lọc. Giống SH2 có TGST vụ ĐX 113 – 118 ngày, vụ HT 90 – 95 ngày; Năng suất 65 – 70 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 80 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, hạt gạo trong, cơm ngon mềm và ráo, vị đậm có mùi thơm nhẹ; Nhiễm nhẹ rầy nâu, ít nhiễm bệnh đạo ôn, khô vằn; Cứng cây chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn cao, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.10. Giống PC6: Do Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm chọn lọc. Giống PC6 có TGST vụ ĐX 115 – 120 ngày, vụ HT 90 – 95 ngày; Năng suất 65 – 70 tạ/ha, thâm canh đạt 75 – 80 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, hạt gạo trong, cơm ngon dẻo, vị đậm có mùi thơm nhẹ; Nhiễm nhẹ rầy nâu, ít nhiễm bệnh đạo ôn, khô vằn; Chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất vàn, vàn trung bình và vàn cao, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.11. Giống ĐT34: Do Công ty CP giống cây trồng Quảng Ninh chọn tạo. Giống ĐT34 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; Chiều cao cây 112 – 114 cm; Số hạt chắc/bông 100 – 125 hạt; Năng suất 60 – 65 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, cơm ngon; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, cứng cây, chống đổ tốt.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.12. Giống HT6: Do Viện cây lương thực, cây thực phẩm chọn tạo. Giống HT6 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 103 – 108 ngày; Chiều cao cây 112 – 114 cm; Số hạt chắc/bông 100 – 120 hạt; Năng suất 60 – 65 tạ/ha, thâm canh đạt 70 – 75 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, cơm mềm và thơm ngon; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ tốt.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 80 – 90 kg/ha.

2.13. Giống NH6: Do Trường Đại học Nông Lâm Huế chọn tạo và đưa vào khảo nghiệm. Giống NH6 có TGST vụ ĐX 115 – 120 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày; chiều cao cây 98 – 102 cm; Số hạt chắc/bông 110 – 115 hạt; Năng suất 60 – 70 tạ/ha, thâm canh đạt 75 – 80 tạ/ha; Chất lượng gạo tốt, hạt gạo dài và trong, cơm mềm và thơm ngon; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.14. Giống Nàng hoa 9: Giống Nàng hoa 9 do KS. Lê Hùng Lân chon tạo. Giống Nàng hoa 9 có TGST thuộc nhóm chín trung ngày. Năng suất trung bình từ 55 – 65 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 75 tạ/ha; chất lượng gạo khá, cơm mềm và có vị đậm; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.15. Giống TBR36: Do Công ty Cổ phần giống cây trồng Thái Bình chọn tạo. Giống TBR36 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày. Năng suất trung bình 65 – 70 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 80 tạ/ha; chất lượng gạo khá, cơm mềm; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.16. Giống TBR45: Do Công ty Cổ phần giống cây trồng Thái Bình chọn tạo. Giống TBR45 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày. Năng suất trung bình 60 – 70 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 80 tạ/ha; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.17. Giống DH46-1: Do Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ chọn tạo. Giống DH46-1 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày. Khối lượng 1.000 hạt từ 24 – 25gam. Năng suất trung bình 60 – 65 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 80 tạ/ha; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.18. Giống DH40: Do Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ chọn tạo. Giống DH40 có TGST vụ ĐX 112 – 117 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày. Khối lượng 1.000 hạt 23,5 – 24,5 gam; Năng suất trung bình 60 – 65 tạ/ha, phẩm chất gạo khá; Ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.19. Giống AN13: Do Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ chọn tạo. Giống AN13 có TGST vụ ĐX 110 – 118 ngày, vụ HT 105 – 112 ngày; Năng suất trung bình từ 62 – 65 tạ/ha; chất lượng gạo khá, cơm mềm; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính; chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

2.20. Giống QNam 1 (CT2): Do Chi Cục Bảo vệ thực vật Quảng Nam chọn tạo. Giống CT2 có TGST vụ ĐX 110 – 115 ngày, vụ HT 105 – 110 ngày. Năng suất trung bình từ 60 – 65 tạ/ha, thâm canh tốt đạt 75 – 80 tạ/ha, chất lượng gạo khá, cơm ngon; ít nhiễm các loại sâu bệnh hại chính, chống đổ khá.

Hướng sử dụng: Thích hợp gieo cấy vụ Đông Xuân và Hè Thu tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trên các chân đất có độ phì khá, thâm canh cao. Lượng giống gieo sạ 90 – 100 kg/ha.

TRUNG TÂM KHẢO, KIỂM NGHIỆM
GIỐNG SẢN PHẨM CÂY TRỒNG VÀ PHÂN BÓN
VÙNG MIỀN TRUNG- TÂY NGUYÊN

TRAN VAN MANH
Center for Plant and Fertilizer Testing in Central region and central Highlands
National Center for Plant and Fertilizer Testing (NCPAFT)
Office add: No 291 Hung Vuong str., Quang Ngai city
Mobi: 0905. 36 33 99
Home tel: (+84) 55 3 677129

Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh lúa

 

NGỌC PHƯƠNG NAM.  Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh lúa bao gồm 1)Thời vụ; 2)Vệ sinh đồng ruộng và làm đất; 3) Chọn giống; 4) Dùng giống lúa xác nhận chất lượng cao, ít sâu bệnh, ít nhược điểm; 5) Lượng giống sạ, xử lý hạt giống và cách gieo sạ; 6) Bón phân cho lúa theo nguyên tắc kết hợp phân hữu cơ – vô cơ,  phân bón gốc- phân bón lá; 7) Quản lý nước; 8) Quản lý sâu bệnh theo IPM, ngăn ngừa và trừ sâu bệnh kịp thời, sử dụng thuốc BVTV theo 4 đúng, phòng trừ chuột, cỏ dại; 9) Thu hoạch, phơi sấy; 10) Hạt giống cho mùa sau. Bài viết sử dụng: Quy trình VIETGAP lúa; Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa thuần và lúa lai; Quy phạm khảo nghiệm VCU giống lúa; Những tiến bộ mới về cây lúa trong thời gian gần đây. Đây là cẩm nang thực hành để tham khảo áp dụng cho các vùng lúa và vụ lúa ở Nam Bộ, Việt Nam.

QUI TRÌNH CANH TÁC LÚA CAO SẢN NGẮN NGÀY Ở NAM BỘ

1.Thời vụ: Gieo sạ đúng thời vu, đồng loạt tập trung né rầy theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp địa phương, cách vụ trước  2-4 tuần.

2. Vệ sinh đồng ruộng, làm đất: Sau khi thu hoạch lúa vụ trước, bà con cần cày đất phơi ải. Vùng có nước lũ nên mở cống xả lũ để rửa phèn (cho lúa vụ 3), lấy phù sa vào ruộng, ngâm đất dùng nước ém cỏ. Khi nước lũ rút tiến hành bừa trục 2-3 lần san sửa mặt bằng, diệt cỏ dại, diệt ốc bưu vàng, diệt chuột (nếu có) trước khi sạ. Đất có mặt bằng tốt, chủ động nước sẽ dễ dàng thực hiện các biện pháp kỹ thuật như khống chế cỏ, bón phân… ruộng lúa dễ đạt năng suất cao.

Đối với vụ Đông xuân:
– Dọn sạch cỏ.
– Trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng bằng máy cày bánh lồng.

Đối với vụ Hè thu:
– Cày đất bằng máy với độ sâu từ 15-20 cm.
– Phơi ải trong thời gian 1 tháng.
– Bừa, trục và san bằng mặt ruộng bằng máy kéo bánh lồng có công cụ trang phẳng mặt ruộng kèm theo.
– Sử dụng máy kéo liên hợp với máy phay hoặc bánh lồng và trục bùn. Tuỳ theo diện tích ruộng lớn hay nhỏ mà dùng máy kéo lớn (trên 50 HP), trung bình (20-35HP) hoặc nhỏ như máy xới tay (12-15HP), máy trục bùn tự hành hoặc phay lồng (6-12 HP).
Chú ý: Ruộng phải bằng phẳng, có hệ thống thoát nước tốt và không đọng nước.

3. Chọn giống: Tuyển chọn giống lúa phù hợp với vùng sinh thái. Theo khuyến cáo của Khuyến nông & Cục Trồng trọt, vùng ĐBSCL hiện tại nên sử dụng các giống sau:

+ Lúa thơm, lúa lai, lúa nếp:  Giống lúa lai BTE-1, PAC807, HR182 cho vùng sản xuất luân canh lúa – tôm, vùng bị phèn, mặn, hạn sẽ phát huy năng suất tốt;  Lúa thơm: Jasmine, VĐ20, OM4900, OM3536, ST5, Nàng Hoa 9,…

+ Lúa giống mới triển vọng: OM10041; OM 54541, OM 6904, OM5472, OM4088, OM6161 (HG2). OM6162, OM4218, OM6073, OM6561, OM4059; Viện Lúa ĐBSCL có bộ giống lúa chịu mặn OM 5464, 2488, 2818, 6379, 6677, 6074, 4276, 6690, 5651, 6521, 5199ĐB, 576, 2517, 5472, 6561, 2395 đã được đưa vào sản xuất đại trà tại các tỉnh ven biển

+ Lúa phổ biến: OMCS2000, VNĐ95-20, OM239, OM4498, OM251, MTL384, HĐ1,

Xác định và sử dụng các giống lúa  phù hợp yêu cầu thực tế của địa phương , thời gian sinh trưởng khoảng 100 ngày, năng suất cao, chống chịu với một số sâu bệnh chính và có phẩm chất gạo tốt đủ tiêu chuẩn xuất khẩu;  Luôn cập nhật thông tin theo Cơ cấu giống lúa cho các vùng sinh thái ở Nam Bộ; Giống lúa tốt thích hợp cho ĐBSCL; … , kết hợp với thực tiễn sản xuất tại địa phương để xác định giống lúa chủ lực, giống bổ sung và  triển vọng mới, từng bước xây dựng cánh đồng lúa mẫu lớn vùng lúa hàng hóa chất lượng cao, rà soát quy hoạch những vùng sản xuất lúa đặc sản hoặc cao sản chất lượng cao theo quy trình VietGap  có sự tham gia hoặc đặt hàng của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo; tăng cường củng cố và đầu tư phát triển toàn diện hệ thống sản xuất cung ứng giống lúa chính quy và nông hộ.

4. Dùng giống lúa xác nhận chất lượng cao, ít sâu bệnh, ít nhược điểm.

Sử dụng hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng tương đương cấp xác nhận (theo qui định của Bộ NN & PTNT):
– Độ sạch (% khối lượng) > 99,0%
– Tạp chất (% khối lượng) < 1,0%
– Hạt khách giống phân biệt được (% hạt) < 0,25%
– Hạt cỏ (số hạt /kg) < 10 hạt
– Tỷ lệ nảy mầm (% số hạt) < 85%
– Độ ẩm (%) < 13.5 %

– Không sử dụng hạt giống lúa kém chất lượng
– Không nên lấy lúa thịt làm lúa giống
– Không sử dụng các giống cũ đã thoái hóa, nhiễm nặng sâu bệnh, chất lượng gạo kém (Nông dân phải nắm rõ đặc tính của giống trước khi trồng để chọn, nhất là những giống có nhược điểm năng suất cao nhưng chất lượng kém như  IR50404, OM 576, …  )

5. Lượng giống sạ, xử lý hạt giống và cách gieo sạ

5.1 Lượng giống sa: khuyến cáo 80-120 kg/ha (nơi đất có mặt bằng tốt, chủ động nước, sạ ướt bằng dụng cụ sạ hàng IRRI SEEDER hay bằng tay; lượng giống sạ cao hơn nơi đất có mặt bằng kém, không chủ động nước, sạ khô, sạ liếp hoặc sạ ngầm)

5.2 Xử lý hạt giống:
· Làm sạch hạt lúa trước khi ngâm ủ bằng cách ngâm hạt trong nước muối 15% trong thời gian 5-10 phút, loại bỏ hạt lép lửng và lẫn tạp.
· Sau đó, cho vào bao ngâm trong nước sạch 30 giờ.
· Rửa bằng nước sạch, để ráo nước, ủ trong 24 giờ đảm bảo hạt vừa nhú mầm.
· Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng Vina Super Humate, Regent hoặc Carban 3%.
Chú ý: Trước khi gieo sạ 6 giờ, không nên tưới nước cho hạt giống để dễ gieo sạ.

Chi tiết cách xử lý hạt giống bằng Vina Super Humate
+ Ngâm ½ lít Vina Super Humate + 100kg giống + 300 lít nước 24-36giờ
+ Tẩm: sau khi ngâm nước 24-36g, vớt lên, xả chua, đem ủ 10 giờ cho lúa khô vỏ, nóng lên, lấy ½ lít humate + 4 lít nước lắc đều phun xịt cho 100kg giống, đảo đều.
Sau đó ủ tiếp từ 12-18 giờ là đủ.

– Nếu sử dụng hạt lúa mới thu hoạch cần xử lý phá miên trạng bằng axit nitric nồng độ từ 3-5-8-10 phần ngàn (áp dụng cho lúa cao sản, ngắn ngày)
+ Mới thu hoạch trong vòng 1 tuần:    nồng độ 8-10%o
+ Thu hoạch trong vòng 1-2  tuần:      nồng độ 5-8%o
+ Thu hoạch trong vòng 2-3 tuần:       nồng độ 3-5%o
+ Thu hoạch trong vòng 3-4 tuần:       nồng độ 0-3%o

– Nếu có lúa von nhất thiết phải xử lý hạt giống bằng dung dịch nước muối 15% để loại bỏ các hạt lép lửng; Xử lý tiếp lúa von bằng một trong các loại thuốc bệnh Polyram, Folicur sữa, Vicarben, Jivon, liều dùng 1-2 g thuốc cho 1 kg hạt giống (xem kỹ hướng dẫn trên bao bì)

5.3 Cách gieo sạ
· Gieo hàng bằng công cụ gieo hàng kéo tay hoặc liên hợp với máy kéo.(xem hình)
· Lượng hạt giống gieo: 100-120 kg/ha.
· Khoảng cách gieo: hàng cách hàng 20 cm.
Chú ý: Lượng hạt giống cho vào trống của công cụ gieo hàng chỉ bằng 2/3 thể tích trống và trách làm ướt bên trong trống để hạt ra đều.

6. Bón phân cho lúa
(theo nguyên tắc kết hợp phân hữu cơ – vô cơ,  phân bón gốc- phân bón lá)

Quy trình bón phân cho lúa cao sản ngắn ngày ở Nam Bộ
– 5-7   NSS:            Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha
– 8-10 NSS:            Bón 4-4-1* (4 bao hữu cơ, 4 bao lân, 1 bao Urê)
*200 kg phân hữu cơ vi sinh)
*200 kg phân lân
*50 kg Urê (1 bao)
– 14-15 NSS:           Xịt 1 lít Vina Super Humate /ha
– 17-18 NSS:           Cấy dặm
– 19-20 NSS:           Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha (nơi lúa xấu, mới cấy dặm)
– 20-22NSS:              Bón theo thực tế:
*Lúa xấu, đất phèn nhiều, đất cát:         Bón 4-4-1* như đợt 1
* Lúa trung bình, đất ít phèn, đất xám:  Bón 3-3-1
* Lúa tốt, đất phù sa:                             Bón 2-2-1
* Đất trũng dư phân:                              Bón 2-2-0 (cắt Urê)
– 25-28 NSS:           Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha
– 30-32 NSS:           Cắt nước (giúp lúa rễ ăn sâu, kháng đổ ngã,
làm đòng thuận lợi, giảm áp lực sâu bệnh,
bộ lá đứng nhận được nhiều ánh sáng tăng quang hợp)
– 40-45NSS:            Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha (giúp lúa làm đòng thuận lợi)
Bón phân đón đòng (theo so mầu lá lúa )
* Chỗ vàng tranh:    50kg Urê + 50kg Kali/ha
* Chỗ xanh lợt:        25kg Urê + 75 kg Kali/ha
* Chỗ xanh đậm:     50-100kg Kali/ha
* Đất phèn nên bón thêm 1-2 bao Silica (có 25% Silic và 40% Can-xi giúp hạ độc phèn)

– 55NSS:                Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha (giúp lúa trổ đồng loạt)|
– 72NSS:                Xịt 1 lít Vina Super Humate/ha (giúp hạt vàng sáng, chắc mẩy)
– 80NSS:                Xịt ½ lít Vina Super Humate/ha (hạt no, đẹp, tăng NS 200 kg/ha)

7. Quản lý nước
– Giai đoạn cây con (0-7 NSG): rút cạn nước trước khi sạ và giữ khô mặt ruộng trong vòng 3 ngày sau khi sạ, ngày thứ 4 cho nước láng mặt ruộng 1 ngày sau đó rút cạn để đảm bảo đủ ẩm bề mặt ruộng.

– Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng (7-42 NSG): Sau khi sạ được 7-10 ngày, bắt đầu cho nước từ từ vào ruộng và giữ nước trên mặt ruộng ở mức 5-7 cm. Trong giai đoạn này, thay nước trong ruộng lúa từ 2-3 lần, sau mỗi lần thay nước giữ cạn trong 2-3 ngày.

– Giai đoạn sinh trưởng sinh thực (42-65 NSG): Giữ nước trong ruộng ở mức 3-5 cm.

– Giai đoạn chín (65-95 NSG): Giữ nước trong ruộng ở mức 2-3 cm cho đến giai đoạn chín vàng (7-10 ngày trước khi thu hoạch) tháo cạn nước trong ruộng.

 8. Phòng trừ sâu, bệnh,  chuột, cỏ dại
– Ngăn ngừa và trừ sâu bệnh kịp thời
– Sử dụng thuốc BVTV theo 4 đúng
(xem kỹ hướng dẫn khuyến cáo kỹ thuật)

8.1 Phòng trừ sâu hại

– Áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM) bao gồm:
– Bắt bướm hay rầy trưởng thành bằng vợt hay bẫy đèn, ngắt ổ trứng các loại sâu và các lá có mang sâu.
– Duy trì và bảo vệ các sinh vật có ích như ếch nhái, nhện, bọ rùa, dế nhảy, muỗm muỗm, bọ xít mù xanh, bọ xít nước, kiến ba khoang, ong mắt đỏ, ong kén trắng, ong đen, ong xanh, ong đùi, nấm tua, nấm xanh, nấm phấn trắng, v.v. bằng cách không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu khi trên ruộng xuất hiện nhiều loài thiên địch. Nếu bắt buộc phải phun thuốc khi có dịch thì phải chọn loại thuốc chọn lọc ít độc đến thiên địch.
– Sử dụng chế phẩm sinh học trừ sâu rầy hại lúa như chế phẩm từ vi khuẩn Bacillus thuringienis (Bt) để trừ sâu non của các loài sâu thuộc bộ cánh vảy và 2 chế phẩm từ nấm ký sinh côn trùng như Ometar (chế phẩm nấm xanh) và Biovip (chế phẩm nấm trắng) để trừ các loài rầy, bọ xít và sâu cuốn lá nhỏ hại lúa.
– Không phun thuốc trừ sâu trong vòng 40 ngày đầu sau sạ để bảo vệ hệ thiên địch, chỉ phun thuốc trừ sâu khi mật số tới ngưỡng phòng trừ quy định và phải tuân thủ kỹ thuật 4 đúng:
· Đúng thuốc: Chọn thuốc đúng đối tượng sâu hại.
· Đúng liều lượng: Tuân thủ quy định về liều lượng thuốc và nước pha theo chỉ dẫn ghi trên nhãn chai.
· Đúng lúc: Phun khi mật số sâu hại phát triển nhiều hơn mật số thiên địch.
· Đúng cách: Phải phun trúng vào nơi có sâu rầy sinh sống như rầy ở gốc lúa, sâu ở trên lá hay trên thân.
– Khi thật cần thiết, có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau đây để phòng trừ:
· Rầy nâu: Applaud 10BHN, Actara 25WG, Bassa 50ND, Mipcin 25BHN và Trebon 10ND.
· Bù lạch: Actara 25WG, Bassa 50ND, Fastac 5ND, Regent 300WDG và Trebon 10ND.
· Sâu phao: Fastac 5ND, Padan 95SP và Regent hai lúa xanh 300WDG.
· Sâu cuốn lá: DDVP 50ND, Fastac 5ND, Padan 95SP và Trebon 10ND.
· Sâu dục thân: Basudin 10H, Padan 95SP, Regent hai lúa xanh 300WDG và Regent 10H.
· Bọ xít các loại: Bassa 50ND và Padan 10H.

8.2 Phòng trừ bệnh hại
Bệnh đạo ôn:
Bệnh cháy lá là do nấm gây ra. Bệnh xuất hiện và gây hại trong cả 2 vụ ĐX và HT và ở tất cả các giai đoạn của cây lúa. Bệnh thường tấn công trên lá, đốt thân, cổ lá và cổ gié. Bệnh đặc biệt thích hợp với điều kiện thời tiết khí hậu mát lạnh, có sương mù như trong vụ đông xuân. Sử dụng biện pháp sau đây để phòng trị:
· Thăm đồng thường xuyên 5-7 ngày lần để phát hiện bệnh kịp thời.
· Khi thấy có một vài vết bệnh xuất hiện, sử dụng thuốc hóa học Tricyclazole hay Probenazole để phun.

Bệnh khô vằn:
Bệnh khô vằn do nấm gây ra và phát triển mạnh ở vụ Hè thu vào giai đoạn sau khi đẻ nhánh tối đa, hoặc khi tán lúa vừa phủ kín mặt ruộng (35-40 NSS).
Để phòng trừ bệnh này cần áp dụng các biện pháp sau đây:
· Vệ sinh đồng ruộng như làm sạch cỏ và các tồn dư của vụ trước.
· Xử lý đất bằng biện pháp cày phơi ải hoặc cho đất ngập nước trong thời gian 15-30 ngày để diệt mầm bệnh
· Sử dụng thuốc hoá học: không cần phải phun hết cả ruộng mà chỉ phun cục bộ ở từng điểm có bệnh. Sử dụng các loại thuốc sau để phòng trị bệnh: Hexaconazol, Iprodione.

Bệnh Bạc lá
Bệnh Bạc lá do vi khuẩn gây ra, bệnh thường phát triển và gây hại nặng vụ Hè Thu trong giai đoạn 40 NSG trở đi. Bệnh lây lan qua con đường hạt giống. Để phòng trị bệnh chủ yếu sử dụng giống kháng kết hợp với xử lý hạt giống như đã khuyến cáo.

8.3. Phòng trừ chuột
– Phối hợp nhiều biện pháp cùng 1 lúc: Thời vụ tập trung, vệ sinh đồng ruộng, đặt bẫy, đào hang, bỏ khí đá vào hang, bơm nước vào hang, dùng chó săn bắt.
– Đánh bả chuột: dùng lúa mộng hay thức ăn gia súc làm mồi trộn với thuốc Fokeba 5% hay Zinphos 20 % với tỉ lệ 1/50, nên đặt nhiều đợt, cách nhau 4-5 đêm, giá để mồi có thể là ống tre, vỏ dừa. Sử dụng thuốc viên Klerat 0,05 % để nhét vào miệng hang.
– Bẫy cây trồng: trong khu vực khoảng 1 km2 (100 ha) bố trí 5 ruộng gieo trồng sớm hơn 1 tháng, cách nhau 500 m, mỗi ruộng có hàng rào ny lông cao 80-100cm và 8 lồng hom (2/bờ). Sử dụng giống lúa thơm để dẫn dụ chuột.
– Dùng thuốc xông hơi như DDVP, Phosphine hay khí đá bỏ vào hang và bịt miệng hang lại.
– Gặt lúa dồn từ xung quanh vào giữa, cuối cùng bao lưới để bắt.

8.4 Phòng trừ cỏ dại
Sử dụng thuốc diệt cỏ đúng kỹ thuật: Đất bằng, chủ động nước sử dụng thuốc diệt cỏ tiền nảy mầm; đất không bằng, khó chủ động nước thì nên sử dụng thuốc trừ cỏ hậu nảy mầm sớm (xem kỹ hướng dẫn khuyến cáo kỹ thuật trên bao bì). Sau đó cần xịt lại chỗ cỏ sót, gò cao, chỗ cỏ tái sinh… bằng các loại thuốc hậu nảy mầm kết hợp nhổ cỏ, bằng tay giai đoạn đẻ nhánh (20-25NSS), làm đòng (40-45NSS), trổ (60-70NSS) và trước thu hoạch (80-85NSS).

Ngoài việc áp dụng đồng bộ các biện pháp trên, luân phiên sử dụng hóa chất diệt cỏ bao gồm: Sofit 300EC, Meco 60EC, Vigor 33EC, Sirius 10WP, Nominee 10SC, Tiller-s, Ronstar 25EC, OK 720DD, Facet 25SC, v.v.

9. Thu hoạch, phơi sấy.
– Thu hoạch đúng độ chín khi lúa chín 85-90%. Nên sử dụng máy gặt đập liên hợp giảm thất thoát so cắt tay từ 5-6%
Chuẩn bị thật tốt sân phơi, lò sấy, tránh hư hỏng lúa sau thu hoạch.

10. Hạt mùa sau: Tuyển giống lúa phù hợp, chọn 1/10 diện tích khử lẫn thật kỹ (4 lần), dùng bao mới, suốt riêng, phơi riêng, tránh lẫn giống trên sân phơi. Lúa giống phơi đến độ ẩm 13%, tồn trữ trong túi yếm khí sẽ bảo quản được lâu.

Biên soạn:
Mai Thành Phụng, Hoàng Kim

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM

Gia đình nông nghiệp

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Lũ đẹp và sạ ngầm lúa sau lũ

CÂY LƯƠNG THỰC. Lũ đẹp là tản văn hay của anh Chu Nhạc. “Con đường từ Long Xuyên đi Châu Đốc, rồi bẻ quẹo đi Núi Sam, Nhà Bàng, Tịnh Biên, Tri Tôn, bên sông, bên đồng, mênh mông nước. Lũ đẹp, cụm từ ấy luôn được lặp đi lặp lại trên miệng người xứ sở này. Lũ đẹp, niềm vui hiện rõ trên gương mặt mọi người . Bên dưới mặt đất đồng bằng là túi phèn tiềm tàng. Ấy vậy, năm nào lũ lớn lũ đẹp, không những nhiều tôm cua cá về theo nước, mà thêm phù sa màu mỡ, đồng ruộng được thau chua rửa mặn. Ngược lại, lũ nhỏ, vụ sau mất mùa… Bao đời nay đã thế, và bây giờ cũng không mấy khác. Kỹ thuật canh tác cao cũng chỉ giúp được con người ta phần nào thôi, bởi thiên nhiên có những quy luật riêng của mình. Hôm chia tay Miền Tây, máy bay cất cánh từ sân bay Trà Nóc, Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long trắng trời nước, từ cửa sổ máy bay nhìn xuống, thấp thoáng những mái nhà, những hàng dừa xanh… Lũ đẹp !…”Phải là người từng trãi nghề nông và miền Tây mới hiểu thau chua, rữa phèn, sống chung với lũ, né lũ, lũ đẹp và sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ. ĐBSCL có 1,6 triệu ha đất phèn, đặc biệt vùng đất phèn nặng do địa hình trũng, nước rút chậm nên áp dụng phương pháp sạ ngầm trong tháng 12 để sạ sớm hơn 2-3 tuần so với chờ nước rút cạn sạ ướt gác sang tháng 1. Kỹ thuật sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ ở vùng Tây Nam Bộ có ý nghĩa tương tự như kỹ thuật trồng ngô đông, khoai lang đông trên đất ướt ở miền Bắc Việt Nam có lợi là “cướp thời vụ”, chi phí nhẹ, năng suất cao hơn so với gieo muộn. Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa sau lũ ở ĐBSCL là những kinh nghiệm rất quý ở Tây Nam Bộ.

Tôi nghe lần đầu các chữ “lũ đẹp” cùng với “né lũ ” “dưới đáy đại dương là ngọc” và “chưa kỹ đậu con, đừng vội làm sư” là từ bác Năm Hoằng, bố của chị Ba Sương. Hiện nay, tôi vẫn còn giữ cái máy điện thoại di động bác tặng cho từ thuở bác nói với tôi rằng thích “đi chân đất, đầu đội trời, nói lời hay, làm việc tốt” . Chuyện hay là vậy mà thấm thoắt đã trên 15 năm rồi. Cha con của hai người anh hùng, thì người đã chết không thể đội mồ ngồi dậy để biện minh cho quyết sách lập “quỷ đờì sống” là đúng hay sai trong quá khứ, người thì ngồi tù sau khi đã nhận tống đạt kết luận điều tra. Trận lũ lớn tràn qua như trận lũ của các bác Lê Huy Ngọ, Nguyễn Quang Hà có phù sa được bồi là lương tâm xã hội được thức tỉnh. Anh Chu Nhạc trong cái hôm đi từ Cần Thơ lên An Giang, … có nhớ về xe ngựa Bảy Núi vậy có bùi ngùi khi ngang qua Nông Trường Sông Hậu? Lũ đẹp, sạ ngầm, mùa cá linh, bông điên điển, Thất Sơn, Cửu Long … đất và người phương Nam ấn tượng biết mấy ?

Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ

1. Điều kiện đầu tiên để áp dụng phương pháp sạ ngầm là: Nước trong, như vậy không phải vùng nào cũng sạ ngầm được, vùng có ưu thế để sạ ngầm là: Vùng đất phèn, đặc biệt là vùng đất phèn nặng (chất phèn sẽ làm lắng phù sa và làm cho nước trong nhanh).

2. Chỉ khi nước rút lộ bờ mới được sạ, bà con nông dân cần củng cố bờ vùng, bờ thửa và hệ thống kênh mương thủy lợi nội đồng cho tốt.

3. Mực nước lúc sạ: Từ 20-40cm là phổ biến nhất. Địa hình cao, nước rút nhanh có thể sạ ở mức 40cm. Địa hình trũng, nước rút chậm, có thể chờ nước rút đến 15-20 cm mới sạ. Nói chung canh chiều cao mực nước cũng chưa đủ, cần canh tốc độ nước rút sao cho sau khi sạ 2 tuần, cây lúa mọc khỏi mặt nước là sạ ngầm thành công. Sạ ở mức nước quá thấp <10 cm, dưới sức nóng mặt trời, nung lớp nước trên ruộng sẽ quá nóng, luộc mầm, lúa chết. Sạ ở mức nước quá cao (>50cm) cây lúa nằm lâu trong nước sẽ yếu về sau đẻ chồi kém và cho năng suất rất kém.

4. Đóng tất cả cống bọng lại trước lúc sạ để:
– Tránh tạo dòng chảy, nếu có dòng chảy sẽ làm nước đục và cây lúa mới mọc quá yếu sẽ ngã rạp theo dòng chảy hư lúa.
– Tránh cua cá ốc từ bên ngoài ruộng lúa vào ăn mầm của hạt giống.

5. Cần tiến hành lồng trục 2 lần (nếu được là 3 lần) trước khi sạ (để có lớp đất mặt tơi, nhuyễn) và vơ cỏ thật sạch. Nếu còn xác cỏ trên ruộng lúa, hạt giống sẽ nằm trên cỏ và sẽ bị nổi về sau.

6. Giống lúa: Chỉ được phép ngâm ủ “búp” vừa nứt nanh trắng, có nghĩa là không để ra mầm ra rễ quá dài (sạ xuống dễ bị nổi). Kỹ thuật ngâm ủ là: Ngâm 24-36 giờ, ủ 36 giờ là đủ (cướp ngót), nhớ ủ ấm, đảo đều. Lượng giống cho sạ ngầm (giống tốt: 140-160 kg/ha) cao hơn khuyến cáo cho sạ gác (100-120 kg/ha).

7. Nên bón lót phân lân nung chảy: Ninh Bình hoặc Văn Điển (400 kg/ha) là rất tốt (về sau sẽ bớt lượng phân DAP). Sạ ngầm tuyệt đối không dùng phân lân dễ tan khi cây lúa còn nằm trong nước (cấm dùng DAP, Super lân Lâm Thao, Super Lân Long Thành khi cây lúa còn nằm trong nước). Sau khi cây lúa ló lên khỏi mặt nước mới được phép bón các dạng lân dễ tan.
Biện pháp trộn giống (búp) với lân nung chảy nên khuyến cáo: Tỷ lệ trộn 1:1, cách làm: Bao giống sau khi ủ nứt nanh trắng mang nhúng xuống nước, xách lên, nước đang chảy ròng ròng, trải mỏng hạt giống ra và khui bao lân nung chảy dạng bột, rắc phân lân nung chảy lên và trộn đều, trộn xong đến đâu, mang gieo ngay đến đó. Lượng phân lân còn lại (của tổng số 400 kg/ha) sẽ được tiếp tục bón lót xuống ruộng. Biện pháp áo lân hạt giống cùng với việc đóng tất cả cống bọng lại sẽ hạn chế rất lớn tác hại của cua cá ốc (sạ ngầm với cách này không dùng nông dược để diệt cua cá ốc)

8. Sau khi sạ xong, hạn chế tối đa người và gia súc lội xuống ruộng (lội xuống làm nước đục, chết lúa)

9. Nên bón urê để thúc mầm từ 1-3 ngày sau sạ: Lượng từ 20-50 kg/ha (tùy độ đục của nước).

10. Trong trường hợp nước quá đục: Mực nước <20 cm cây lúa từ từ sẽ mọc lên. Nếu mực nước >20cm cần tiến hành đặt máy bơm 2 góc ruộng, bơm với lưu lượng vừa phải (tránh dụm lúa, nổi lúa) để loại bỏ lớp nước đục (sau đó nước mội sẽ xì lên và có độ trong hơn).

Theo www.nongnghiep.vn

Hình suốt lúa ở Cao Lãnh và ở Miên

hoangkimvietnam said

Chào Cao Nguyên em gái Nam Bộ. Đến thăm em dòm trộm em đang mãi miết chụp hình suốt lúa. Trời xanh thiệt….Hình chụp đẹp và nét thiệt… Em thì chụp hoài còn anh thì coi hoài và nghe nhạc hoài không chán. Anh ngó đi ngó lại cô Út em chụp đến ba bốn tấm hình mà không rõ mặt. E cũng đừng nên nhìn rõ làm chi mà chỉ nên nhạt nhòa như vậy, như biết bao đứa em, đứa cháu , đứa học trò lam lũ theo cái nghiệp nhà nông “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẽo thơm một hột đắng cay muôn phần” … Vậy mà cứ vô tư đi em, như thằng nhỏ hai lúa và như bài hát này. Hay lắm. Anh xin em rinh bài này về trang http://cayluongthuc.blogspot.com Anh cũng có mấy tấm ảnh suốt lúa ở Miên nhưng không đẹp và không ngộ bằng của em”

caonguyenbui wrote:
Thầy Kim tự nhiên rinh về đi. Thực ra thì CNB tính chụp rõ mặt cô gái hứng lúa, mà nghĩ đem hình người ta lên mạng thì không được, nhạt nhòa vậy biết đâu lại hay…..

Nghe nhạc ngày mùa và xem phóng sự ảnh suốt lúa của Bùi Cao Nguyên tại đây

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC