NGỌC PHƯƠNG NAM. Nhà văn Hoàng Đình Quang sinh năm 1951, quê Thái Nguyên, hiện sống và viết tại thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã in: Hát chẳng theo mùa 2009; Xuân Lộc 2006; Phản trắc 2006; Cánh đồng lưu lạc 2005; Học làm giàu từ những doanh nhân khổng lồ (hai tập) 2004; Phiên chợ Tết cuối cùng 2002; Thua thắng nghề buôn (hai tập) 1999; Thời loạn 1997; Mùa chim ngói 1995; Định mệnh 1993; Những ngày buồn 1992; Nỗi lòng trinh nữ 1992 (Bút danh Kiều Hồng ); Nói thầm 1991, Chàng nai 1983. Trang weblog giao lưu của anh Quang là hoangdinhquang.blogspot.com/
Anh Hoàng Đình Quang có nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn hay. Anh cũng là nhà biên tập chuyên nghiệp, tốt bụng, khách quan và tận tâm. Thơ Hoàng Đình Quang hay không kém văn, có ngôn ngữ riêng, một số câu giản dị mà ám ảnh “Xin em đừng tin những câu tôi viết/ Con chim vu vơ hót chẳng theo mùa”; “Sào định mệnh cắm vào dòng sông khác/ Đá cỏ hai bờ đã in dấu trăm năm”; “Phong trần đậu bến thuyền quyên/ Phong lưu thì lắm, bạc tiền thì không/ Em cho anh cả tấc lòng/ Anh đem trao lại cái không có gì…”; “Báu chi châu báu, ngọc ngà / Thà say khướt, chứ tỉnh ra… lại cười!”
Bài thơ Hưng Yên của anh vừa quen vừa lạ, đã chạm đến vẻ đẹp của thú chơi thơ đường luật tao nhã: “Thanh tân em gái cười trong nón/ Chầm chậm mẹ già ngóng trước hiên/ Phố Nối ngập ngừng ta tiễn bạn/ Với Hưng Yên, thượng lộ bình yên!” Bản dịch bài thơ Tương tiến tử của Lý Bạch thật thú vị, không hẵn là thơ dịch “Trời sinh ta có tài cao / Lo gì chẳng có chỗ nào kiếm ăn / Hết tiền? Xin chớ lăn tăn / Đồng tiền là thứ có chân đi, về!” Thơ Hoàng Đình Quang ấn tượng hơn cả là những bài thơ tình. Đó là những lời yêu thương lặng lẽ khát vọng. Bài thơ “Vũng Tàu” là lời kết có hậu: “Hỡi những ai lưu lạc giữa cuộc đời/ Không nơi hôn nhau thì trong mơ sẽ có/ Dù Bãi Trước, Bãi Sau chỉ toàn sóng gió/ Hạt cát cuối cùng vẫn lấp lánh ngọc trai.”
Lê Thiếu Nhơn đã viết về Hoàng Đình Quang hát chẳng theo mùa: “Từ năm 1991, Hoàng Đình Quang đã bước vào đời sống thi ca bằng tập “Nói thầm”, nhưng rồi văn xuôi kéo anh khắc khoải bàn chân khao khát khám phá qua “Những ngày buồn”, qua “Mùa chim ngói”, qua “Thời loạn” và qua cả “Cánh đồng lưu lạc”. Cứ ngỡ nàng thơ đã buông tha Hoàng Đình Quang, ai dè bối cảnh xã hội nhiều bộn bề vẫn bắt anh phải “Hát chẳng theo mùa” (NXB Hội Nhà văn 2009) với vần điệu ngổn ngang. Thơ Hoàng Đình Quang có thể giúp chúng ta hiểu hơn tâm trạng một người cầm bút thương gần nhớ xa, khi “người lính ấy trở về” lặng lẽ trong phút giây “hãy tắt đèn và nghĩ về nhau” và chốc lát run rẩy “Phan Thiết mùa đông” đắm đuối chưa nguôi… ”.
Tôi tâm đắc với Lê Thiếu Nhơn , đọc lại cùng anh bài Nghịch lý Nguyễn Khải và “Quy tắc bàn tay trái ”. Xin giới thiệu chùm thơ Hoàng Đình Quang cùng hai bài văn trên và bức ảnh “Đón bạn ở xa về” (anh Quang là người thứ tư, bên phải qua)..
Hoàng Kim
(tuyển chọn và giới thiệu)
CÂU THƠ ĐỊNH MỆNH
Anh đứng lặng trước dòng sông số phận
Chuyến đò hoa quay mũi tự bao giờ
Bến nước cuối cùng rải đầy mảnh vỡ
Chiếc chén ngà đong nước mắt ngày xưa
Anh lênh đênh một mình giữa mây và nước
Bối rối ngàn dâu, bối rối tơ tằm
Sào định mệnh cắm vào dòng sông khác
Đá cỏ hai bờ đã in dấu trăm năm
Không thể nói yêu em như thuở còn vụng dại
Cái thuở nhìn đâu cũng báo hiệu một mối tình
Giờ anh khóc trong một chiều huyền thoại
Có ai ngờ sương đã trắng đầu anh
Anh không dám chạm vào mối tình mà anh đang có
Mối tình sau mong manh lắm người ơi
Như sương mỏng phủ hờ trên áo mỏng
Sau bức rèm kia là tan vỡ mất rồi!
11.1993
(Tuyển trong Thơ Việt Nam 1945-2000,
Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn,
Nhà Xuất bản Lao động năm 2000, trang 1048)
THƠ TÌNH TẶNG VỢ
Tơ hồng một sợi này đây
Mình ơi, anh buộc cổ tay cho mình
Neo đời nhau một chữ tình
Duyên thì anh giữ, nợ mình em mang.
Vận vào cái nghiệp đa đoan
Bao nhiêu sấp ngửa, đá vàng bấy nhiêu.
Đắm say nào kể ít nhiều
Những khuya khao khát, những chiều đam mê.
Số trời Thân ngự cung Thê (*)
Ngả nghiêng, xô lệch trăm bề… lại yên!
Phong trần đậu bến thuyền quyên
Phong lưu thì lắm, bạc tiền thì không…
Em cho anh cả tấc lòng
Anh đem trao lại cái không có gì
Đường chiều nặng gánh tình si
Hai bàn tay nắm một vì sao xa…
Nỗi buồn như gió thoảng qua
Thương yêu, anh gọi mình là… vợ anh!
http://quangnv.vnweblogs.com/post/1698/193855
(*)Tử vi: “Thân cư cung thê” : người có số nhờ vợ.
HƯNG YÊN
Lần đầu theo bạn đến Hưng Yên
Bạn tặng cho mình chút nợ duyên
Phố Hiến một thời còn tấp nập
Chùa Chuông trăm tuổi vẫn tham thiền
Thanh tân em gái cười trong nón
Chầm chậm mẹ già ngóng trước hiên
Phố Nối ngập ngừng ta tiễn bạn
Với Hưng Yên, thượng lộ bình yên!
http://quangnv.vnweblogs.com/post/1698/213930#comments
VŨNG TÀU
Nếu cuộc đời này không có chỗ để hôn nhau
Trong giấc mơ hãy đưa em về Bãi Trước
Nếu những gì ngoài đời ta thua cuộc
Hãy hùa theo những đợt sóng dập vô hồi
Không thể đo bằng những hò hẹn buông trôi
Khi bọt biển cũng có mùa hoa trái
Em đã khóc cho một cành rau đắng dại
Giữa chung chiêng mặn ngọt thủy triều.
Từng biết tháng ngày thử thách tình yêu
Không thể xa hơn, cũng không gần hơn được
Trong tất cả những gì ta thầm ước
Sợi chỉ căng ra vạch dấu chân trời.
Hỡi những ai lưu lạc giữa cuộc đời
Không nơi hôn nhau thì trong mơ sẽ có
Dù Bãi Trước, Bãi Sau chỉ toàn sóng gió
Hạt cát cuối cùng vẫn lấp lánh ngọc trai…
6-2007
Hoàng Đình Quang 2009. Hát chẳng theo mùa
Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, trang 54
QUY TẮC BÀN TAY TRÁI
Hoàng Đình Quang
– Các bạn biết không? Hồi còn đi học, tôi ghét nhất các môn khoa học tự nhiên… Vì thế tôi học các môn toán lý hóa dở lắm. Điểm hai, ba môn toán, lý đối với tôi là chuyện thường tình!
– Thưa thầy, thế thì sao thầy vẫn được lên lớp, được đậu đại học và học đến tiến sĩ như ngày nay ạ? Cô sinh viên Hồ Lan Bích có đoi mắt to tròn và cái nhìn đầy thách thức không ngại hỏi thầy như vậy.
– Có thể em không tin, nhưng xin em cứ tin tôi đi. Học tài thi phận mà. Với lại, những môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn văn, đã cứu tôi, cứu tổng số điểm thi lên đến mức chấp nhận được. Hà hà… nói nhỏ em nghe nhé: tôi có biệt tài liếc mắt mắt phô tô cái đáp số của người bạn thi bên cạnh. Tôi học được từ một người thầy mà biết ở các kỳ thi tuyển hay thi lên cấp, các giám khảo chỉ quan tâm tới cái đáp số thôi. Tôi liếc được cái đáp số của bạn, rồi viết thật ngay ngắn, đóng khung hẳn hoi… Chí ít cũng không bị điểm liệt. Đó là sự thật, là cả một cái bánh mì, nguyên vẹn!
Thầy Tươi trở nên nổi danh là một con người, một trí thức chuộng sự thật!
– Nhưng không hiểu sao, ông tiến sĩ nói tiếp, trong những môn học về con số đầy sự vô nghĩa, vô lý và vô bổ ấy, tôi lại nhớ rất kỹ một quy tắc. Đó là “Quy tắc bàn tay trái”! Các bạn có biết nó như thế nào không?
Bàn tay “búp măng” đầy tính nghệ sĩ và nhục dục hơi nghiêng về phía cô trò nhỏ.
Cả lớp học cười ồ, thán phục!
Từ đó, không chỉ sinh viên của Tiến sĩ Tươi, mà đến đồng nghiệp, bạn bè đều gọi Cù Xuân Tươi bằng cái biệt danh “Tiến sĩ quy tắc bàn tay trái”.
Hoàng Đình Quang (đăng ngày: 19-01-2008)
Do sự phân công của Hội nhà văn, tôi và Triệu Xuân được chỉ định thay phiên nhau ngồi thường trực đón những đoàn thể và cá nhân đến viếng nhà văn Nguyễn Khải, tại đám tang ông vào các ngày 16-17/01/2008. Công việc nhiều quá, bận bịu thế, ngồi đấy mà như lửa đốt, nhưng chúng tôi vẫn làm tròn bổn phận của mình. Sau 3 ngày tang lễ, tôi lại thấy trong đầu ốc xuất hiện những cảm giác lạ, cảm thấy mình như vừa có một chuyến đi thực tế, không kém phần phong phú và nghĩ ngợi.
***
Gần đây, nhiều nhà văn ra đi quá, mà toàn những người tiếng tăm, có cảm giác là vơi đi mất một góc chiếu. Trong số ấy, tôi muốn nói đến Trần Quốc Thực, một người từ biệt thế giới này vào những phút cuối cùng của năm 2007.
Tôi với Trần Quốc Thực là bạn, nhưng không thân. Năm 1990, tôi ở Hà Nội khá nhiều. Lúc đó Hà Nội chưa đông như bây giờ, và Văn Miếu – Quốc tử giám còn rất hoang phế. Hàng bia tiến sĩ bỏ hoang, tôi vào một cách tự nhiên, và những con rùa đá cụt đầu cùng với phân chó và phân người rải rác. Tôi gặp Trần Quốc Thực trong bầu không khí như thế. Thực rủ tôi đến 19-Hàng Buồm (trụ sở Hội Văn Nghệ Hà Nội và báo Người Hà Nội lúc bấy giờ) để lấy tiền nhuận bút 2 bài thơ của anh rồi đi uống bia hơi. Thực rủ tôi về nhà anh ăn cơm, nhưng tôi ngại nên thôi. Tôi nhớ, lúc đó đang có dư luận về việc xét giải Văn học năm 1990. Thực có tập thơ Miền chờ mỏng thôi, nhưng có nhiều tìm tòi, nên cũng hy vọng. Chúng tôi xôn xao lắm. Không khí thì nghèo nàn, nhưng thơ ca thì sôi động. Năm ấy, Nguyễn Quang Thiều với chiếc xe đạp cuốc Liên Xô và tập thơ Ngôi nhà tuổi mười bảy, đã chủ trì một đêm mạn đàm thơ của Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ tốn mất mấy con ngan và 20 lít rượu trắng. Trần Quốc Thực rủ rỉ thuyết phục tôi: thơ phải thay đổi. Tôi ậm ừ, nhưng thấy mình không thể theo được thơ nữa rồi.
Sau này có nhiều lần gặp nhau, nhưng chúng tôi không bàn gì nữa, Thực như một đạo sĩ, chậm chạp, mệt mỏi. Gần đây nhất, với đôi mắt buốn bã, Thực nói với tôi: Quang gửi ra một chùm thơ nhé. Tôi cười: có biết làm thơ nữa đâu! Và thôi. Cho đến khi nghe tin anh ra đi…
Năm ấy, tôi về Sài Gòn in xong tập Nói thầm thì thôi, không làm thơ nữa và chuyển hẳn sang viết văn xuôi.
Tôi viết truyện ngắn rất nhanh, hơn chục truyện ngắn ra đời chỉ trong vòng một năm (in thành tập Mùa chim ngói). Tiểu thuyết cũng nhanh, Những ngày buồn chỉ trong 2 tháng. In trên báo Văn Nghệ, tạp chí VNQĐ… hay hay không, chưa dám nghĩ, nhưng bạn bè và đặc biệt các bậc thầy, đàn anh nhắc đến. Tôi nhớ là Nguyễn Quang Sáng gọi cho tôi chỉ nói mỗi một câu: Mày viết cái Mùa chim ngói được quá! Lê Văn Thảo thì khen Cái roi. Và… Nguyễn Khải! Tôi chưa gặp ông bao giờ, cho đến khi tôi đánh bạo gõ cửa nhà ông, tặng ông cuốn tiểu thuyết vừa in xong. Tôi nghĩ tặng thế thôi, chắc gì ông đã đọc. Nhưng không phải, mấy tháng sau ông gặp tôi và nói: cứ thế mà viết! Có điều, người “anh hùng” hơi có vẻ không tưởng! Khi cuốn tiểu thuyết ấy được giải thưởng, nhà văn Trần Quốc Toàn về nói lại cho tôi nghe: Nguyễn Khải bảo: thằng này được giải oan! Tôi không hiểu thế nào. Sau này, được họp cùng chi bộ, ngồi cạnh ông, tôi định hỏi, nhưng không dám, cho đến hôm nay, khi ông mất.
***
Ngồi thường trực ở đám ma ông, tôi thấy nhiều người nói: Nguyễn Khải đã rút ruột ra nói với tôi… Hoá ra, ai cũng thế, nói chuyện với Nguyễn Khải, luôn có cảm giác được ông trút hết cả ruột gan cho mình xem. Tôi rất liều, bạn bè ở đâu xa, muốn đến gặp Nguyễn Khải, tôi đều đưa đến và được ông… rút ruột cho nghe, về chuyện đời, chuyện nghề. Phạm Quốc Ca từ Đà Lạt xuống, tôi đưa đến, Nguyễn Khải tiếp chúng tôi có cả bia và thuốc lá Jet (ông hút loại khá nặng). Có một người bạn tôi, đọc bài ký của ông về dâu tằm Lâm Đồng, muốn hỏi cách đưa người nhà ở quê vào, tôi cũng đưa đến gặp Nguyễn Khải, và ông cũng tiếp một cách nồng ấm… Tôi chưa bao giờ được nghe Nguyễn Khải khen tôi, nhưng một người khác kể lại, ông nói về tôi: nó (và hai thằng nữa) viết truyện ngắn khá ở trong Nam (thời điểm năm 1995). Điều này tôi quý hơn những giải thưởng.
Một lần, giữa những năm đổi mới sôi nổi (và toàn diện) tôi đến thăm ông và hỏi: “Người ta đang bàn luận um sùm về lý thuyết văn chương, theo anh thì nên theo lý thuyết nào?”. Ông vừa pha nước vừa nói, hình như với cái xuyến chứ không phải với tôi (nguyên văn): Làm thằng nhà văn thì làm chó gì có lý thuyết, trông nhau mà viết! Tôi im lặng và xem đây là bài học cơ bản và cụ thể mãi mãi trong đời viết của mình! Tôi chắc sẽ không đủ can đảm để đi tiếp bước đường văn, nếu không nhận được bài học này của ông.
***
263 đoàn, tập thể và cá nhân đến viếng và gửi vòng hoa đến đám tang Nguyễn Khải, tôi tỉ mận chọn ra:
Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban tuyên huấn trung ương Tô Huy Rứa, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân gửi vòng hoa. Bí thư thành uỷ gửi vòng hoa, do phu nhân bí thư đem tới viếng.
Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi vòng hoa và đứng gần 1 tiếng đồng hồ từ lúc 5:30 AM ngày 18 để dự lễ truy điệu.
Có những bức điện hoa, điện chuyển tiền (cao nhất là 1triệu đồng) gửi đến. Bà con láng giềng của ông Khải ở quận 4, TP HCM và nhiều người hàng xóm của ông ở bãi Phúc Xá – Hà Nôi từ hơn 30 năm về trước, người vào đây thì đến viếng, người ở xa thì gửi hoa…
Hoá ra ông không có nhiều bạn văn: chỉ độ hơn 30 người! Trong số bạn cùng thời, tôi thấy có Nguyên Ngọc, Trần Kim Trắc, Đoàn Minh Tuấn… đến viếng, còn lại gửi vòng hoa. Bạn văn lớp trẻ hơn cũng ít quá. Hội văn nghệ địa phương chỉ có Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai.
Trong số này, có nhiều bạn ông (già như ông hoặc hơn kém vài tuổi) làm đủ thứ ngành nghề, xa lạ với văn chương nghệ thuật, lại thường hay có mặt ngày đêm, và đưa tiện ông đến tận miệng huyệt. Bác sĩ, nhà giáo, hội người tiêu dùng, ngân hàng… và cả những người làm nghề gì đó mà không ai biết… (nhà văn Ngô Vĩnh Bình thống nhất với tôi: những người ất ơ). Số này đến quá nửa!
Sao thế nhỉ? Cuộc đời ông có cái gì đó chênh vênh với nghiệp dĩ chăng?
Nguyễn Khải có 60 năm tuổi Đảng, có Huân chương Độc lập Hạng nhì, có quân hàm Đại tá, là đại biểu Quốc hội, có người đọc sách, mua sách của ông… Các con ông thành đạt, giàu có hàng đại gia.
Trong số các nhà văn Việt Nam, số người tài mà thành đạt và yên ổn, được tôn vinh, được trọng dụng như Nguyễn Khải, có lẽ đếm không quá số ngón tay của một bàn tay!
Phải chăng, trong con mắt của các nhà văn, những bạn văn lớn nhỏ thì: một người tài, không được phép thành đạt? Và ngược lại: anh không thành đạt vì anh có tài? Anh thành đạt vì anh không có tài?
Văn chương Nguyễn Khải nặng về lý.
Ôi! Chân lý hay nghịch lý đây?
Nguồn; DẠY VÀ HỌC
Pingback: Niềm tin và nghị lực « Thung dung
MIKI
Hoàng Đình Quang
Cả nhà tôi ai cũng cưng Miki!
Miki là con chó đẹp và khôn. Mỗi khi ba tôi ra lệnh cho nó làm một cái gì đó, bao giờ Miki cũng lặng lẽ ra chiều suy nghĩ rồi hất nhẹ mớ lông trước trán, lòa xòa xuống mắt rồi mới thi hành mệnh lệnh một cách hoàn hảo. Nó biết ba tôi là ông chủ, người có quyền lực tối thượng trong căn nhà này. Còn khi tôi bảo nó làm việc gì, như đi lượm trái banh chẳng hạn, thì nó vui vẻ làm theo ngay, nhưng thường không đến nơi đến chốn. Nó hay giỡn mặt tôi!
Ba tôi bảo Miki thuộc giống chó khôn và đẹp vào hàng nhất thế giới. Một ông bạn người nước ngoài, là đối tác liên doanh với Tổng công ty do ba tôi làm giám đốc, đã cất công lùng mua mãi tận đâu ấy, xa lắm làm quà biếu cho ba. Lúc đầu tôi nghĩ dù sao thì nó cũng chỉ là con chó, vì có lần nó đã thượng lên gối của ba mà… tè! Nhưng ít lâu sau, cả nhà tôi phải công nhận là nó khôn, và chính thức coi nó như thành viên trong gia đình. Ai đi về cũng hỏi Miki trước nhất, và bao giờ cũng nhận được sự niềm nở vô điều kiện của nó!
Gia đình tôi, ba mẹ và tôi, giờ có thêm Miki là bốn thành viên!
Tôi quên, còn một người nữa, đó là dì Tám, người giúp việc cho chúng tôi. Dì Tám ở dưới quê, tôi cũng chẳng biết tỉnh nào. Tôi chỉ thấy dì như cái bóng trong nhà, lờ mờ nhưng chỗ nào cũng thấy dì hiện diện. Ngoài công việc lau nhà, giặt ủi, cơm nước… cho cả nhà, dì Tám còn có một nhiệm vụ đặc biệt do ba tôi giao là tắm cho Miki, và đến bữa cho nó ăn. Ba nói rằng một người cho Miki ăn thôi để nó khỏi ăn tạp, tránh người ta đánh bả. Con chó khôn thiệt, đôi khi tôi thấy nó cũng nũng nịu không chịu ăn, như là muốn làm khó cho dì Tám. Có lẽ nó cũng biết dì là người ở, làm công trong nhà chúng tôi.
Tết, dì Tám xin về quê ăn Tết với các con của dì. Ba mẹ tôi lo tiền công và quà cáp cho dì chu đáo, rồi dặn dì nhớ lên sớm. Trước khi về, dì Tám cúi xuống vuốt mớ lông trắng bốp của Miki rồi mới ra cổng!
Bữa chiều hôm ấy mẹ tôi lấy cơm và thịt cho Miki ăn. Con chó đứng trước đĩa thức ăn rồi nhìn chúng tôi, ngờ vực. Nó khẽ rít lên những tiếng nhỏ trong cổ họng, rồi lui vào góc phòng, không chịu ăn. Mẹ tôi thông báo tin này cho ba tôi, ông ngồi váo bàn ăn, lắc đầu: chắc nó còn no! Tôi cũng nghĩ thế!
Chiều hôm sau tôi đi học về, Miki vẫn nhảy ra quấn lấy chân tôi như thường lệ, nhưng đến bữa vẫn không chịu ăn. Ba tôi bảo: kệ nó, đói khắc phải ăn! Tôi cũng nghĩ thế!
Hôm sau, hôm sau nữa Miki vẫn không chịu ăn, mẹ tôi bảo hay nó ốm? Nhưng không, nó vẫn niềm nở với mọi người! Đến ngày thứ năm, con Miki bắt đầu uể oải, nó gầy đi, không còn cái vẻ tinh quái nữa. Mẹ tôi phàn nàn với ba:
-Nó nhớ chị Tám! Tại anh biểu để một mình chị Tám cho nó ăn! Giờ thì… chỉ có chị Tám cho nó mới ăn!
Ba tôi bưng đĩa thức ăn cơm trắng và thịt bò xào thơm phức đặt trước mũi Miki. Nó hít hít một lúc, tôi thấy nước miếng nó ứa ra. Nhất định nó phải ăn, tôi nghĩ trong bụng! Nhưng Miki nằm xuống, hết nhìn ba, lại nhìn đĩa thức ăn rồi ngoảnh đi chỗ khác! Ba tôi quát lên: Đúng là ngu như chó!
Hôm sau nữa thì chúng tôi cuống lên thật sự. Miki đã nằm bẹp xuống sàn nhà, ba tôi dúi đĩa cơm thịt vào miệng nó, nhưng con chó dứt khoát lắc đầu, thụt lùi. Ba tôi ghé sát vào tai Miki:
-Tao lạy mày, chó ơi! Ăn đi lấy một miếng! Mày mà chết thì…
Tôi thấy Miki vẫn nằm im, nước dãi và nước mắt nó chảy ra dàn dụa, nhìn đĩa cơm, nhưng vẫn không ăn. Ba tôi quay sang mẹ:
-Đi rước ngay chị Tám lên!
Nhưng không ai biết nhà dì Tám ở đâu!
Đến ngày thứ mười thì con Miki chết! Ba tôi, mẹ tôi và tôi đều buồn lắm!
Hai hôm sau, trong lúc ba mẹ tôi đi vắng thì dì Tám lên. Dì có quà cho tôi là một xâu bánh tét nhân dừa. Trong lúc bóc bánh cho tôi ăn, dì hỏi:
-Ủa, Miki đâu rồi mà không thấy nó ra mừng dì hả em?
Tôi dẫn dì Tám ra góc vườn, chỉ vào nấm đất nhỏ nhoi, nơi tôi chôn Miki. Dì ngồi xuống, bàn tay vỗ nhẹ lên mộ Miki, an ủi nó.
Tôi kể cho dì nghe những gì đã xảy ra với Miki. Nghe xong, dì ngẩng lên nhìn tôi, tôi thấy những giọt nước mắt lăn trên má dì, vỡ ra!
NÉN HƯƠNG THƠM KÍNH TIỄN NGƯỜI ĐI XA
Hoàng Kim
Kinh viếng cô Hạnh
Viếng Cô mà mắt rưng rưng
Cô ơi cô đã lên đường rồi sao?
Lời anh Quang viết hôm nào (*)
Thơ tình tặng vợ nghẹn bao nỗi niềm.
Bạn bè thầm lặng đầy hiên
Bao người đến viếng từ miền xa xôi
Dẫu cho dầu cạn cuộc đời
Đèn cô đã thắp rạng ngời niềm tin.
Cô là ngọn lửa trái tim
Ngôi sao hạnh phúc trên nền trời quang.
Suốt đời đức hạnh lo toan
Yêu thương gửi lại lên đường thảnh thơi
Viếng cô thân thiết, bồi hồi
Nén hương thơm kính tiển người đi xa…
—–
(*) Thơ tình tặng vợ của Hoàng Đình Quang
THƠ TÌNH TẶNG VỢ
Tơ hồng một sợi này đây
Mình ơi, anh buộc cổ tay cho mình
Neo đời nhau một chữ tình
Duyên thì anh giữ, nợ mình em mang.
Vận vào cái nghiệp đa đoan
Bao nhiêu sấp ngửa, đá vàng bấy nhiêu.
Đắm say nào kể ít nhiều
Những khuya khao khát, những chiều đam mê.
Số trời Thân ngự cung Thê (*)
Ngả nghiêng, xô lệch trăm bề… lại yên!
Phong trần đậu bến thuyền quyên
Phong lưu thì lắm, bạc tiền thì không…
Em cho anh cả tấc lòng
Anh đem trao lại cái không có gì
Đường chiều nặng gánh tình si
Hai bàn tay nắm một vì sao xa…
Nỗi buồn như gió thoảng qua
Thương yêu, anh gọi mình là… vợ anh!