KIMLOVELIFE. Nhà văn Nguyễn Khải đã mất cách đây trên hai năm (ông mất ngày 15. 1. 2008) nhưng trang văn và cuộc đời của ông vẫn tồn tại . Những tác phẩm chính của ông vẫn tiếp tực thức tỉnh các thế hệ: Tôi viết vậy thì tôi tồn tại; Xung đột; Mùa lạc; Gặp gỡ cuối năm; Thời gian của người; Điều tra về một cái chết; Vòng sóng đến vô cùng; Cõi nhân gian bé ti; Nếp nhà; Hà Nội trong mắt tôi; Một người Hà Nộị; Chút phấn cho đời; Thượng đế thì cười … Đi tìm cái tôi đã mất. Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết về ông những dòng cảm mến: “Nguyễn Khải có một số phận rất Việt Nam. Anh có một tuổi thơ buồn, éo le và cả tủi nhục nữa – cũng như cái “tuổi thơ” của nhân dân mình vậy, rất có thể đắm chìm mãi mãi nếu tự trong anh – lại cũng như tự trong nhân dân mình vậy – không có một sức tự vươn lên kỳ lạ, im lặng, nhẫn nhục, mà kiên trì, kiên định, dũng cảm một cách thực sự là dũng cảm bởi không hề ồn ào, để thành người, một con người đàng hoàng trong cuộc đời, thành đạt trong sự nghiệp và ở đỉnh cao… Cũng từ chính chìm nổi của cuộc đời mình mà Nguyễn Khải hiểu và có quan niệm rất sâu, rất nghiêm về nghề và nghiệp cầm bút. Nghề cầm bút, với anh, trước hết và sau cùng nữa, là nghề làm người. Nghiêm trang và khó nhọc như nghề làm người…Nguyễn Khải không mất, nhà văn rất thời sự ấy lại cũng là nhà văn của tương lai”. Triệu Xuân nhận xét: “Nguyễn Khải là một trong những người tiên phong viết tiểu thuyết về cuộc sống dân sự đầy vật lộn cam go sau chiến tranh. Tôi nghĩ chính anh, nhà văn Nguyễn Khải đã khai sinh dòng tiểu thuyết viết về những chuyện thường ngày, bám sát các sự kiện nóng hổi, đầy chất trí tuệ, chính luận của văn học Việt Nam.”
NHỮNG LỜI ANH GỬI LẠI
“Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”
“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”
”Trong gần bảy chục năm sống, tôi không phàn nàn bất cứ đoạn đời nào, những năm tháng nào. Có cái trước thì mới có cái sau, có cái này mới có cái kia. Tôi quan niệm khiếm khuyết là điềm lành, không có gì phải lo nhiều; hoàn toàn là điềm dữ, không chuẩn bị trước thì tai họa có ngày. Mươi năm trở lại đây tôi đã có ý thức điều chỉnh lại cách sống của mình, cố gắng sống thật tử tế, thật đàng hoàng. Bớt đi được một nửa những cái chưa tử tế cũng là tốt rồi. Tôi tự đánh giá là một cây bút nhẫn nại trong cái nghề của mình, chứ không phải là một cây bút tài hoa, có tài bẩm sinh. Nếu không có cuộc Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến thì tôi chỉ là một kẻ vô danh, chứ không thể làm được gì nên chuyện. Cho nên chế độ chính trị hiện nay dẫu có bao nhiêu thiếu sót, có bao nhiêu chuyện đáng buồn, đáng giận, tôi vẫn gắn bó máu thịt với hôm nay. Những cái làm được là kỳ tích của dân tộc, chuộc lại những lỗi lầm trong quá khứ, (đi tìm cái tôi đã mất) đưa nước Việt Nam, người Việt Nam sang thế kỷ 21″.
Nguyễn Khải
Những bài liên quan (đọc tại đây)
Nguyễn Khải: Tôi viết vậy thì tôi tồn tại
Nguyễn Khải: Đi tìm cái tôi đã mất.
Nguyễn Khải (nhà văn) Wikipedia Tiếng Việt
Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Khải VietnamNet
Tác giả “Mùa lạc” qua đời VnExpress
Thương nhớ nhà văn Nguyễn Khải. Triệu Xuân
Những lời anh gửi lại HK tuyển chọn, Hoàng Đình Quang bình
28 bài viết chọn lọc về Nguyễn Khải
DẠI KHÔN NGUYỄN KHẢI
Nguyễn Đăng Mạnh
Nguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.
Gặp anh, chỉ có anh nói, chứ tôi có nghĩ ra cái gì đáng nói đâu. Vả lại, anh nói liên miên, tôi có muốn nói cũng chẳng nói vào đâu được. Nhưng anh nói rất hay, rất vui. Đúng là một người thông minh và hay nghĩ nên lắm ý kiến. Anh nói về đời, anh nói về văn. Tôi học được ở anh nhiều qua những lần ngồi nghe anh nói. Một số ý trong những bài viết của tôi là do anh vô tình gợi ra. Ai cũng thế thôi, hễ nghĩ ra được một cái gì tự thấy đắc ý cũng thích nói ra. Một ý nghĩ trong đầu ví như viên ngọc còn thô. Phải phóng ra để cọ xát, mài rũa cho nó sáng lên. Tôi chắc Nguyễn Khải có hẳn chủ trương như vậy nên hễ có dịp là anh tranh thủ nói nhiều.
Tôi cho rằng đấy cũng là cách viết của Nguyễn Khải. Anh ngồi nghĩ là chính. Khi nẩy ra một ý, một tư tưởng nào đó mà anh cho là được, anh mới đi tìm thực tế để thể hiện nó ra thành hình tượng, thành văn. Như thế không hẳn là văn minh họa. Vì khi anh ngồi nghĩ một mình thì đã nghĩ từ những hiện tượng này khác rất cụ thể rồi. Và khi đi tìm thực tế thì thực tế với những tình huống bất ngờ của nó sẽ điều chỉnh cho những ý nghĩa của anh đúng hơn, trúng hơn. Đối với người viết văn, dù là sáng tác hay phê bình, tư tưởng chủ quan là quyết định, tất nhiên phải là tư tưởng gắn với yêu ghét, khinh trọng thật sự của riêng mình, chứ không phải thứ tư tưởng trừu tượng nẩy ra trên bàn giấy, vay mượn trong sách vở. Tôi chắc Nguyễn Khải cũng quan niệm như thế. Vì nghe anh nói chuyện mấy lần, thấy anh hay lấy tiêu chí tư tưởng để đánh giá người này, người khác. Thí dụ anh nói, nhà văn này, từ khoảng 1980 trở về trước chả có tư tưởng gì cả, hay là cuốn hồi ký của nhà thơ nọ, đọc lúc đầu có không khí, thích, sau buồn, thấy chẳng có tư tưởng gì, hoặc là ông giáo sư rất uyên bác và danh tiếng kia, thế mà đọc, thất vọng quá, thấy không có tầm cỡ tư tưởng gì, chẳng có băn khoăn gì lớn về chính trị, về triết học…
Tôi chắc Nguyễn Khải đi thực tế rất nhanh và viết cũng rất nhanh. Chiếm thời gian của anh nhiều hơn là ngồi một mình và nghĩ. Mà truyện hay ký của anh hấp dẫn người đọc chủ yếu cũng là nhờ những ý nghĩa ấy. Nhớ lại tình hình ba bốn chục năm về trước, hồi ấy có được ý nghĩa riêng và phát biểu được ý nghĩa riêng không dễ, tuy rằng bây giờ đọc lại, thấy những ý nghĩa ấy cũng chẳng ghê gớm táo tợn gì. Nguyễn Khải giống như một anh cán bộ xã hay huyện gì đó dám tổ chức khoán chui và khoán chui trót lọt trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp còn là một chân lý không ai được bàn cãi. Nhưng “ khoán chui” ý nghĩa thì phải rào đón cho kín. Đấy là chỗ khôn ngoan của anh, nhưng cũng là chỗ anh phải trả giá, trả giá bằng những đoạn văn rào đón vòng vo dài dòng. Mà văn rào đón thì hay làm sao được.
Người ta thường nói, Nguyễn Khải là người rất tỉnh và khôn, thơ thì có Chế Lan Viên, văn xuôi thì có Nguyễn Khải. Nhận xét đó không sai. Nhưng tôi cho rằng, anh cũng có nhiều lúc say và bốc. Và có lúc cũng dại dột nữa đấy. Nguyên Hồng có lần nói, bọn văn xuôi chúng tôi dại lắm, chỉ có đám làm thơ là khôn. Nhận xét này có khi cũng đúng cả với Nguyễn Khải. Nhưng đó chính là chất nghệ sĩ đáng yêu của anh.
Hồi Đỗ Chu mới xuất hiện, anh ca ngợi rất bốc, như một tài năng anh không sao sánh nổi. Tôi đã được nghe anh nói như thế với cán bộ và sinh viên khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi truyện Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp ra đời, anh càng bốc hơn nữa: “ Trời đất mượn nó để thể hiện ra, chứ tài nó không viết nổi. Viết xong cái truyện này thì coi như nó rồi đời, hết đời. Tinh hoa của nó hút cả vào đấy rồi, nó chỉ còn là một cái giẻ rách. Nó mà viết được một truyện như thế nữa thì có là thiên tài. Câu trước, câu sau khác hẳn, tiền văn không đoán được hậu văn: “ đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm! Hoan hô đèn cù!”, “ Sao lại cho tiền vào miệng bà??, “ Đấy có phải là ngậm miệng ăn tièn?”, “ Trong đời, tôi chôn ba nghìn người”, “ Thế là sướng, “ đòm” phát là xong…, giơ ngón tay nghéo cò…”. Dữ dội quá, sợ quá, đưa lên phim ảnh thì sợ quá… Một tác phẩm như thế làmmình không dám viết nữa. Thế là hết đời. Tôi xin bỏ nghề đấy!”
Nguyễn Khải nói say sưa, đầy cảm hứng. Con người có bụng liên tài thật sự. Người xưa cũng bốc lắm chứ: “ Đọc đươc một câu văn hay, chết cũng sướng”. Các cụ thường nói thế. Đấy là cái sướng đầy chất nghệ sĩ của người có máu văn chương. Tôi rất thích những cái bốc như thế của Nguyễn Khải.
Nhưng có những cái bốc tôi cho là dại, là khờ. Nhớ lại cái năm liền sau Đại hội VI của Đảng, Nguyễn Khải được gọi ra Hà Nội để chuẩn bị đại hội nhà văn lần thứ 4. Anh cũng bốc ra trò. Anh từng sôi nổi nói với tôi nhiều chuyện về ý đồ cải cách Hội nhà văn, nào phân công ra sao, nào cách làm ăn thế nào cho khôn khéo để có thể đổi mới một cách an toàn… Bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết đi được. Nhưng rồi anh tỉnh ra ngay. Trí khôn lại trở lại.
Cách đây vài chục năm, có một vị đàn anh trong nghề dạy tôi thế này: Chúng ta là những con chuột, muốn an toàn phải đào nhiều hang. Mất hang này, ta chạy vào hang khác. Nguyễn Khải có cái hang sáng tác. Có biến, anh chui tọt ngay vào. Lý ra đã là người viết thì ai chả phải đào cho mình cái hang sáng tác. Nhưng đào có dễ đâu. Cho nên có người mang danh sáng tác nhưng lại cứ phải đào cho mình những cái hang khác.
Tôi cho rằng cái hang sáng tác của Nguyễn Khải khá tốt đấy. Và anh cũng chỉ nên ở cái hang ấy thôi.
Cái lí lịch đặc biệt của Nguyễn Khải khiến anh hình như có hai con người trong một con người, có hai vùng thẩm mỹ trong một thế giới nghệ thuật.
Một con người căm ghét bọn trưởng giả, cả cũ lẫn mới. Khi con người này làm chủ thì Nguyễn Khải thường ném váo cái đối tượng gọi chung là trưởng giả kia những lời lẽ thạt đau, thật ác, nhiều khi ngoa ngoắt. Hạng người này ở đâu cũng có, kể cả trong giới nhà văn. Nguyễn Khải dành cho đối tượng này những lời khinh bạc đến điều: “ Hạng này không thể viết được cái gì ra hồn đâu. Đi ô tô, ở nhà lầu, đi nước ngoài quanh năm, lại còn sáng tạo nữa! Thế ông vơ hết của thiên hạ à? Trời công bằng lắm, có luật thừa trừ hết”. Có lần tôi nghe anh nói như thế về một nhà thơ.
Sau 1975, giải phóng Sài Gòn, vớ được hạng này chưa kịp chuồn ra nước ngoài, anh liền dựng họ lên thành nhân vật để “ tặng” cho mấy cái tát- “ tưởng ghê gớm lắm, hóa ra vừa ngu vừa hèn!” (Gặp gỡ cuối năm, kịch Cách mạng).
Đối lập với hạng trưởng giả kia là những con người suốt đời lầm lũi sống trong bóng tối, như con giun con dế, hầu như không bao giờ biết đến hạnh phúc ở đời. Đó thường là những người đàn bà còn mang cái đức nhẫn nại và nhẫn nhục của thời xưa, hoàn toàn hi sinh cho đời, cho chồng con, không bao giờ nghĩ sống cho bản thân mình, như là chị Vách trong Đời khổ, chị Khuê trong Người vợ, hay chị vợ anh Phúc trong Chúng tôi và bọn hắn… Nguyễn Khải đã tìm đến những con người ấy để ghi công họ, để biểu dương họ như những tấm gương liệt nữ vĩ đại của thời nay, anh gọi “ là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn nhất” của chồng con (Chúng tôi và bọn hắn) nhưng đời lại hoàn toàn không biết đến. Và chính họ cũng không hề biết đến. Đời không biết là rất dở, nhưng họ không tự biết thì vẻ đẹp lại càng thêm chói lọi.
Con người Nguyễn Khải này chắc hẳn phải mang trong mình dòng máu của lớp cùng dân, từng bị dầy xéo, lăng nhục. Vì thế lời văn khi thì uất hận, khi thì xót xa, một thứ văn như để giải oan, như để đòi nợ, như để trả thù…
Nhưng bên cạnh đó lại có một Nguyễn Khải khác, rất am hiểu và đồng cảm với giới thượng lưu của Hà Nội xưa. Lớp người này không còn vương sót lại bao nhiêu, nó là một thứ “ Hà Nội vang bóng một thời”. Lớp người này cũng có nhiều cái dở, ích kỷ, lỗi thời, nhưng có một cái gì đó sang và đẹp. Họ khôn ngoan thật, nhưng biết tự trọng. Khôn ngoan để thích ứng với thời thế, nhưng không chịu để mất niềm tin riêng, cốt cách riêng. Ây là một lối sống, một nền văn hóa riêng dường như mang linh hồn nghìn xưa của đất đế đô thanh lịch, là một di sản quý rất cần trân trọng như trân trọng những ngôi nhà cổ, những đường phố cổ của Hà Nội vậy, Nguyễn Khải gọi đó là những “ hạt bụi vàng… chìm sâu vào lớp đất cổ”, cần có một cơn lốc xoáy hút nó bay lên cho sáng đẹp đất kinh kỳ… Tất nhiên Nguyễn Khải muốn góp phần làm nên cơn lốc đó. Đây là một vùng thẩm mỹ mới chỉ có thể xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Khải khoảng mươi lăm năm lại đây thôi. Xui khiến anh khai thác vùng thẩm mỹ này, dĩ nhiên phải là một Nguyễn Khải khác, thuộc một dòng máu khác. Khi con người này làm chủ thì người ta thấy anh thích nói chuyện sang, thích nói giọng sang.
Mấy năm gần đây, Nguyễn Khải hay viết vẽ về bản thân mình, một lối hồi ký, tự truyện. Ở những tác phẩm này, Nguyễn Khải lại như cố tình khoe với thiên hạ cái hèn, cái kém, cái nhếch nhác đến tội nghiệp của mình. Có một cai gì giông giống như tự truyện của Tô Hoài. Hóa ra cuộc đời của anh cũng lắm gian truân, cũng đầy tủi nhục. Anh chỉ tự cho là “ một giọt nắng nhạt” thế thôi. Chính những truyện này đã giải thích hai dòng máu nói trên ở Nguyễn Khải. Một lối văn tự trào vừa chua chát, cay đắng, ngậm ngùi, có lúc như nói hờn, nói dỗi. Nhưng ẩn kín đằng sau lại là một thái độđầy tự tín. Phải tự tín, thậm chí ngạo đời mới dám khoe cái hèn, cái kém của mình ra chứ! Người không có cái gì khiến người đời phải nể trọng thì chỉ có “ tốt đẹp khoe ra xấu xa đậy lại” thôi chứ! Cụ Tú Xương ngày xưa thường hay khoe ra, thậm chí phóng đại những cái hư hỏng, tồi tệ, vô tích sự của mình, chính vì cụ không phải kẻ tầm thường đâu, một trái tim, một tâm sự lớn lắm đấy. Chẳng qua là tự thấy bất lực trước thời thế nên mới tự trào và nói phẫn thế thôi. Cho nên ở cái tôi, hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, tôi ngờ rằng có cả hai dòng máu nói trên hòa trộn, khó phân biệt.
Nguyễn Khải là người có tài, có thực tài. Nhưng tài của anh ở đâu? Nó là thế nào? Tôi vẫn thấy lúng túng.
Truyện gì mà toàn nói chính trị, toàn bàn về thời cuộc, thời sự, toàn luận về đạo lý. Hầu như không có tình yêu cho nó mùi mẫn ướt át một tý. Nhiều truyện cũng chẳng có tình tiết gì ly kỳ. Vậy mà nói chung truyện nào cũng đọc được, thậm chí hấp dẫn nữa. Riêng tôi đọc báo, cứ thấy có tên Nguyễn Khải là thế nào cũng phải đọc.
Chung qui vẫn là những ý nghĩ của anh, những ý nghĩ anh gọi là bơi ngược dòng, “ bơi ngược một tý, rẽ ngang một tí” (Anh hùng vĩ vận). Tôi thì gọi là “ khoán chui”, “ khoán chui tư tưởng”
Nhưng “ khoán chui” chỉ có nghĩa lý khi đang ở thời thịnh của hợp tác xã nông nghiệp. Khi khoán đã thành chế độ tự do, khoán cả làng, thì “ tài khoán chui” còn cần gì nữa. Thời bao cấp chấm dứt, Nguyễn Khải đâm ra lúng túng. Đúng là “ anh hùng vĩ vận” thật.
Nhưng chỉ ít lâu sau, anh lại nghĩ ra cách thoát khỏi vận bĩ. Thôi thì cứ thật thà đóng vai người cũ, thuộc thế hệ già, thử nhìn lại đời mình bằng con mắt của thời cuộc mới xem sao. Nhân vật chính của anh giờ đây là cái tôi trải đời của mình và những nhân vật cũng trải đời như anh. Trải đời mà thấy mình lạc lõng. Trải đời mà như chẳng có kinh nghiệm gì, cứ ngơ ngác trước cuộc đời, vì đây là thời đổi mới, thời mở cửa. Nhưng như thế mà lại hay, mà lại vui. Ngày xưa nghĩ lại thấy cũng buồn “ Không phải lo nghĩ mà lại buồn. Ngày ngày đều giống nhau, người người đều giống nhau, một đời người như ngắn đi rất nhiều vì không có những bất ngờ, những may rủi, không có những thăng trầm. Một ngày(…) nghe đủ mọi chuyện, nhưng chẳng có câu chuyện nào tạm gọi là thú vị về một đời người. Những đời người rất nhạt nên không thể gọi là đã có” (Anh hùng bĩ vận). Bây gờ thời thế đã khác, con mắt mình, trí óc mình cũng đổi khác, nhìn đâu cũng thấy chuyện mới lạ, người mới lạ: “ Vẫn là con người Việt Nam mình mà gặp thêm một người lại tưởng như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người” (Hai ông già ở Đồng Tháp Mười). Nguyễn Khải bèn đối chiếu hôm nay với hôm qua, đối chiếu con mắt của lớp trẻ với con mắt của lớp già, của người anh hùng thời nay và người anh hùng thời qua. Và anh thấy nẩy ra biết bao vấn đề để suy nghĩ, bàn luận, triết luận vốn là chỗ sở trường của anh và là cái thú riêng của anh: nào chuyện lựa chọn đường đi của mỗi cá nhân trong xu thế chung của cộng đồng, chuyện cái ngẫu nhiên và cái tất yếu của lịch sử, chuyện rủi, may, khôn, dại, buồn, vui… của những kiếp người. Cả chuyện văn chương cũng thay đổi khác rồi. Ôi, cái thời xưa “ Văn chương ở cạnh mình, sống hằng ngày với mình mà vẫn tưởng như vời vợi đâu đó cao xa lắm” (Nghề văn cũng lắm công phu). Nguyễn Khải khi thì lấy con mắt của người hôm nay để quan sát người hôm qua, khi thì lấy con mắt của người hôm qua để quan sát người hôm nay. Tha hồ mà phát hiện cái hay, cái dở để mà hoặc ngợi ca, hoặc giễu cợt. Vì hôm nay hay hôm qua đều có chỗ đáng khen và chỗ đáng chê. Mà viết như thế cũng đỡ đơn điệu, vì có điều kiện luôn luôn thay vai, đổi giọng.
Dĩ nhiên ý nghĩa dù có hay đến đâu cũng không thành văn được. Phải cho nó nhập vào nhân vật này nhân vật khác. Một trong những tài năng đặc biệt của Nguyễn Khải là chộp được rất nhanh những kiều người có “ vấn đề” khác nhau để có dịp ném ra những suy nghĩ của mình, khi thì trực tiếp, khi thì đặt vào miệng các vai truyện. Ngay trong cái thời mà khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn phát triển mạnh mẽ trong đời sống văn học, Nguyễn Khải thỉnh thoảng vẫn bờm xơm vỗ vai, xoa đầu nhân vật anh hùng của mình một cái. Cái chất suồng sã ấy, thế mà có tác dụng rất tốt, nó khiến người đọc thấy anh không lý tưởng hóa nhân vật của mình, tìn là những người có thật, và tin những ý nghĩ của anh ném ra kia cũng là xuất phát từ sự thật.
Tuy nhiên trong thời bao cấp, những ý nghĩa gọi là “ ngược dòng” của Nguyễn Khải, thực ra nó cũng khó thoát hẳn ra ngoài nguyên tắc tư duy chung của cộng đồng, cho nên những nhân vật mang tư tưởng của anh chưa thật phong phú lắm. Vài cái phần tư tưởng của anh gửi vào nhân vật xem ra nhiều hơn, nặng hơn cái phần tư tưởng của nhân vật làm giầu cho cái vốn người của anh.
Nhưng từ ngày đổi mới, tình hình có khác, nhất là mươi năm lại đây, thế giới nhân vật của anh phong phú, đa dạng hơn, nhiều kiểu người, dạng người kia không có, không thể có. Và những nhân vật ấy bồi đắp tư tưởng cho anh nhiều hơn là anh cung cấp tư tưởng cho chúng. Một thế giới nhân vật chứa đựng nhiều khám phá hơn, bất ngờ hơn.
Những nhân vật này đúng là khá đa dạng. Nhưng hay để ý mà xem, đại bộ phận đều là những người già. Hình như nhân vật Nguyễn Khải càng ngày càng già, và anh cũng ngày càng thích đóng vai già, thích nói giọng già. Nhưng nghĩ cho cùng, xưa kia cũng vậy thôi, hình như Nguyễn Khải chưa từng có nhân vật thật sự trẻ bao giờ. Người nào cũng khôn ngoan, cũng trải đời, thạo đời, lõi đời, và cũng thích… dạy đời thì trẻ làm sao được, trẻ cũng hóa già, như cái Tấm trong Đứa con nuôi đấy thôi… Đúng như Nguyễn Khải tự bạch, cái Tấm cũng là Nguyễn Khải, đều không có tuổi trẻ, trong đời thực cũng như trong đời văn.
Nhiều tác phẩm của Nguyễn Khải, từ trang này đến trang khác, toàn là những lời đối đáp tay đôi, tay ba về chính trị, thời sự, về đạo lý. Thật tình mà nói, dù ý kiến hay ho, trí thức mới lạ thế nào, đọc mãi cũng nản. Lắm lúc cứ như là độc biên bản những cuộc hội thảo về đề tài chính trị, thời sự vậy. Rất may là Nguyễn Khải có một cái giọng văn riêng có khả năng thổi sự sống vào những dòng chữ khô khan. Một giọng trần thuật mà như là trò chuyện thoải mái với người đọc và với nhân vật của mình. Một cách nói năng hoạt bát, thông minh, hóm hỉnh, hiểu mình, hiểu đời, lắm lúc cứ như muốn đi guốc vào bụng thiên hạ. Một giọng văn mà nhiều khi thật khó phân biệt là nói với người hay nói với mình, tự trào chua chát có, giễu người, giễu đời cũng có. Một cách diễn đạt khôn ngoan, hay dùng lối nước đôi lấp lửng, hiểu là phê phán cũng được, hiểu là khẳng định cũng được. Bởi vì thời nào cũng có tốt có xấu, người nào cũng có thiện có ác, có sang có hèn, và chuyện đời thì có thế này và có cả thế kia… Không nên phán xét hay qui kết đơn giản một chiều…
Giọng văn của Nguyễn Khải muốn nói với ta như thế chăng?
Quan Hoa, Xuân Canh Thìn 12- 3- 2000
N.Đ.M(135/05-00)
Tạp chí Sông Hương 5.4.2010
http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=4&catid=18&ID=5271&shname=Dai-khon-Nguyen-Khai
NGUYỄN KHẢI
Hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh
Nguyễn Khải khác hẳn Nguyên Ngọc. Thiết thực, không phiêu lưu mạo hiểm, không muốn chết, không muốn đi tù. Anh tự nhận luôn là thằng hèn cho người ta khỏi phải bàn tán lôi thôi.
Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương (1) của Nguyên Ngọc bị Tố Hữu đánh, Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này, nên sợ quá. Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc : “Tao nhát lắm, chưa đánh đã khai. Cho tao chạy đi thôi, mày thông cảm, đừng khai tao ra nhé”.
Nguyễn Khải rất thiết thực và tỉnh táo, vậy mà cũng có lúc mê muội. Tôi gọi là dại – tôi đã viết như thế về Nguyễn Khải trong bài Dại khôn Nguyễn Khải. Mới biết cái danh, cái lợi cũng dễ mê hoặc lắm. Hồi được gọi ra Hà Nội để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ tư (Trần Độ, Nguyễn Văn Hạnh dự định sắp đặt Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc làm chánh, phó Thư kí Hội Nhà văn). Nguyễn Khải xem ra cũng hăng hái lắm. Anh nói với tôi y như là sẽ làm Tổng thư ký đến nơi : Anh phẩy tay ” Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên thì phế cả đi ! Còn về lý luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi. Nhưng ta phải khôn khéo, đổi mới nhưng phải khôn khéo. Trần Độ cứng quá, cứ ỉa ra đấy cho người ta phải dọn. Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu ! Nếu cần quỳ xuống lậy, ta cũng phải quỳ “.
Trong bài viết về Nguyễn Khải, tôi có nhắc đến chi tiết này, cho là một cái dại của anh và hạ một câu : ” Bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết được ! “. Tôi tưởng anh giận tôi, hoá ra anh lại thích thú. Thích vì thấy hiểu mình quá. Tôi rất quý cái thành thực ấy của Nguyễn Khải. Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết Nga làm luận án về Nguyễn Khải. Cô tìm gặp anh để tìm hiểu. Anh đưa cô xem bài viết của tôi, nói là cứ đọc bài này là hiểu anh. Và anh cầm bài viết đọc luôn cho cô ta nghe. Đến chỗ ” Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được ! “, anh đỏ bừng mặt và cười hô hố – Cô nghiên cứu sinh kể lại với tôi như vậy.
Trong bài viết nói trên, tôi có nói đến một bậc đàn anh trong nghề dạy tôi phải đào nhiều hang. Ta là con chuột, lấp hang này, ta chui hang khác. Đó là Đinh Gia Khánh. Ở bài này, tôi dẫn câu Nguyễn Khải nói, có một nhà văn, trước 1975, chẳng có tư tưởng gì cả. Đấy là Nguyễn Minh Châu. Đúng là trước 1975, tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là minh hoạ đường lối, tư tưởng của đảng. Sau 1975 mới có tư tưởng. Tư tưởng Nguyễn Minh Châu đặt ở nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát. Tôi cũng dẫn lời anh chê một nhà thơ viết hồi ký, đọc lúc đầu có không khí, sau chẳng thấy có tư tưởng gì. Đó là A. T. (Hồi ký Từ bến sông Thương)(2). Tôi còn dẫn ra câu anh nói về một giáo sư danh tiếng mà đọc (hồi ký) cũng chả thấy có tư tưởng gì. Đó là Đ.T. M. (2).
Như vậy là đọc văn hay viết văn, Nguyễn Khải rất chú ý đến tư tưởng của tác phẩm. Nhưng ở anh, có một mâu thuẫn : một mặt muốn phát biểu tư tưởng riêng, vì ý nghĩa của văn chương là ở đấy. Nhưng mặt khác lại muốn sống yên ổn với đời nên chỉ có thể mạnh dạn nửa vời, mạnh dạn trong một khuôn khổ nào đấy thôi. Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu, chắc anh luôn luôn tự dặn mình như thế. Vả lại nghĩ đi nghĩ lại, anh không thể quên công ơn của cách mạng đối với mình. Từ một cậu bé con rơi con vãi, sinh ra đã bị khinh bỉ, bị lăng nhục, sau cách mạng trở thành nhà văn có danh, có lợi đủ cả. Cũng phải biết điều một chút chứ !
Thông minh và tỉnh táo, Nguyễn Khải luôn có ý thức về thân phận của mình, về cái giá trị của mình đối với đời. Anh kể chuyện, hồi anh là đại biểu quốc hội, đi ôtô từ Ba Đình về nhà khách. Đến chỗ đường tàu, xe phải dừng lại cùng một số đồng bào đi xe đạp, xe máy. Anh nhìn xuống, thấy rợn người : có một tay đang nhìn lên anh, cặp mắt đầy căm thù. Anh nghĩ mình cũng chỉ là loại nghị gật, vô tích sự, thằng ăn hại, dân nó khinh ghét là phải.
Chiến thắng 30.4.1975, anh đi vào Nam. Gặp Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh. Anh cảm thấy Ngọc và Oánh nhìn mình như muốn nói : ” Mình chiến đấu gian khổ bao lâu không thấy mặt nó đâu, bây giờ chiến thắng rồi, nó vào. Rồi nó sẽ viết nhiều, viết hay hơn mình cho mà xem ! “. Nguyễn Khải nói : ” Biết thân phận thế, tôi cứ ngồi len lén, không dám nói năng gì “.
Mà cái tài của Nguyễn Khải là thế thật, có cần đi thực tế gì đâu. Trước 1975, anh chỉ ngồi ở ngoài Bắc mà viết về Hoà Vang chiến đấu như thật. Cho nên có ai đó đã làm vè giễu anh :
Anh đi anh lại về ngay,
Hoà Vang cũng ở ngoài này đó em.
*
Khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, Nguyễn Khải đưa gia đình vào Sài Gòn. Lúc đầu xem chừng sinh hoạt còn khó khăn. Anh ở quận Bốn (448B/9, phường 18, Nguyễn Tất Thành) tôi có đến thăm. Nói chuyện với tôi, thấy anh cứ nhấp nhổm chạy ra chạy vào : gia đình bán giải khát và cho thuê điện thoại. Có khách đến, phải chạy vội ra phục vụ. Mấy năm nay thì khá hơn rồi. Anh có người con (Nguyễn Khải Hoàn) kinh doanh nhà đất, kiếm được. Nhưng nhà cứ mua đi bán lại, nên anh cứ phải chuyển chỗ ở luôn. Mỗi lần tôi vào Sài Gòn, lại thấy anh ở một chỗ khác. Biết tôi vào Sài Gòn, thế nào anh cũng mời đến uống rượu.
Đến Nguyễn Khải, lúc nào cũng có rượu. Anh nói, bây giờ rượu Tây sẵn, nghĩ thương ông Nguyễn Tuân. Ngày xưa mỗi lần họp, thấy ông lấy ra một cái bi đông rượu, rót vào cái nắp, mời vị này, vị khác. Nay rượu Tây đầy ra đấy, ông không còn để mà uống.
Nói chuyện với Nguyễn Khải, tôi không ngờ hồi mới vào Sài Gòn, loại văn nghệ sĩ cỡ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải mà khổ đến thế : ” Vũ Thị Thường nói, đi đường chỉ mong nhặt được tiền ai đó đánh rơi “. (Hệt như câu nói của Hoàng Ngọc Hiến hồi ấy : ” Đi đường thấy có một đồng xu rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ ! “)
” Chế Lan Viên ở quận Tân Bình chỉ thèm ăn một bữa ngon, phải ra tận quán bà luật sư Huỳnh Ngọc Đại (3) để được bà ấy đãi một bữa cơm Tây. Ai mời, đâu mời cũng đi. Chỉ để kiếm bữa ăn thế thôi, và xách về một chai nước mắm hay mấy cân gạo nó cho. Nguyễn Khải cùng đi với Chế Lan Viên. Một thằng làm thơ, một thằng viết ký, một ca sĩ đi theo hát. Tôi gọi là hai kép, một cô đầu cùng đi kiếm bữa ăn và ngồi nghe mấy tay giám đốc dốt nát vào đấy ba hoa. Nó có tiền nên hai nhà văn cứ phải gật gù nghe nó dạy dỗ “.
Nguyễn Khải có nhiều ý kiến rất táo bạo :
” Đảng không bao giờ coi trọng trí thức, biến trí thức như Hoàng Xuân Nhị thành hèn hạ. Mà bị nó khinh. Tôi từng gặp Hoàng Xuân Nhị ở nhà Tố Hữu. Tố Hữu không thèm nói chuyện với ông ta, cứ để cho ông ta ngồi một mình. Tóc bạc phơ. Tố Hữu chỉ nói với tôi là một thằng còn rất trẻ. Trần Đức Thảo thì bị biến thành một thằng thần kinh. Sang Pháp, bao nhiêu Việt kiều mời đến, không đến, cứ ở Đại sứ quán, tuy bị nó khinh như chó.
Thuỵ An thì bị tù. Trong tù đi lao động, ngã vào dây thép gai, bị mù một mắt. Nay vẫn ở Sài Gòn, sống rất khổ. Không đi Pháp vì là con gái lớn phải ở lại nuôi mẹ già…”
” Chúng ta thuộc lứa người bị bỏ phí cả một thời trai trẻ để học theo một cái lý thuyết vớ vẩn, chả nghĩ ra được cái gì, chẳng làm ra được cái gì trong giới hạn của chủ nghĩa Mác – Lê – một thứ triết học của người cầm quyền. Mà có hiểu Mác – Lê thực đâu. Toàn nghe lãnh tụ nói và nói theo. Trong cái khung của một ý thức hệ, còn ai nghĩ ra được cái gì nữa. Chủ nghĩa Mác thành ra một thứ tôn giáo. Tin mà không hiểu. Bao người hy sinh vì cái lý thuyết vớ vẩn ấy. Chủ nghĩa xã hội toàn đẻ ra những con người quái gở như Mao Trạch Đông, Staline, Pônpốt, rồi Nguyễn Chí Trung…, toàn lũ điên “.
” Ta có một thời cứ tin tưởng ở cái không có. Như tin ở chủ nghĩa xã hội “.
” Chính trị và quan điểm giai cấp trùm lên tất cả. Con người không có tình bạn. Bạn bè mà có vấn đề chính trị là không được quan hệ “.
” Chủ nghĩa xã hội nếu không thay đổi thì con người thành mọi rợ, rừng rú. Từ ăn, ỉa, mặc, ở… Sợ quá ! ”
Nguyễn Khải nói về uy quyền ghê gớm của Lê Đức Thọ một thời. Anh chứng kiến Sáu Bắc (Lê Đức Thọ) tiếp Sáu Nam (Lê Đức Anh). Hôm ấy, Thọ gọi một số văn nghệ sĩ đến hỏi chuyện. Thọ đang tiếp khách. Bọn Khải phải ngồi đợi ở phòng bên cạnh. Lát sau, khách ra về. Hoá ra khách là Lê Đức Anh. Nguyễn Khải thấy Lê Đức Anh đi ra, cứ đi giật lùi, giật lùi ra mãi giữa sân mới dám quay đít lại. Thọ tiếp chúng tôi. Đúng lúc ấy thấy Phạm Hùng đi sang. Hùng đề nghị gặp Thọ một lát. Thọ phẩy tay : ” Để lúc khác nhé, giờ đang bận tiếp khách văn chương “. Thọ coi Hùng chẳng là cái gì, tuy Hùng lúc đó là thủ tướng, thay Phạm Văn Đồng.
” Nói chung cộng sản coi văn nghệ sĩ như rác. Lê Duẩn coi Tố Hữu cũng chỉ như một con hát. Nhưng lại sợ văn nghệ. Vì chỉ dùng tuyên truyền, dùng nước bọt mà giành được nước. Chỉ nói, có làm gì đâu. Nói đủ cả, chẳng làm gì. Thí dụ, cứ nói phê bình tự phê bình mà chưa bao giờ phê bình tự phê bình cả. Có dám nói thật đâu mà phê bình tự phê bình. Chỉ toàn đào tạo gia nhân, đầy tớ, bọn nịnh hót. Sợ văn học cũng vì thế. Vì văn nó nói sự thật, nó lật tẩy. Rất sợ biểu tượng hai mặt. Chỉ đề cao văn tuyên truyền, đề cao vè. Thật ra bọn nhà văn nói chung nhát, không dám chống chế độ đâu ! “.
” Chế Lan Viên một thời, dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm. Tô Hoài gọi là thằng nặc nô của đảng. Hồi chỉnh huấn văn nghệ sĩ, Chế Lan Viên làm tổ trưởng, nói với Nguyễn Tuân : ông tưởng ông to lắm à ? Tôi phụ trách ông kia mà ! Họp chấp hành, ý kiến Chế Lan Viên là quyết định. Thí dụ, ban chấp hành bàn có nên kết nạp Phan Quang không ? Mọi người chờ ý kiến của Chế Lan Viên. Chế Lan Viên đi đái vào, nói : ” Thằng Thép Mới nó còn ở ban chấp hành được thì thằng Phan Quang sao không cho vào hội được ! “. Ai cũng gọi là thằng tuốt. Thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài, thằng Hoàng Trung Thông, chẳng sợ ai cả. Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên. Phải về nhà mới nghĩ ra cách bác lại, nhưng hôm sau, không còn lý do để tranh cãi nữa, vì lão ấy lại nói chuyện thân mật “.
” Nhưng Chế lan Viên chết rất khổ. Vũ Thị Thường phục vụ rất mệt. Gần chết hay quát tháo vợ con. Vũ Thị Thường nói chỉ thèm được ngủ, khi Chế lan Viên chết, việc đầu tiên là ngủ bù một giấc, dạy mới có sức mà khóc “.
Nguyễn Khải có một ưu điểm là có óc liên tài thật sự. Rất phục người tài. Tôi đã được nghe anh phục Đỗ Chu như thế nào khi Chu mới xuất hiện. Đối với Nguyễn Huy Thiệp lại càng phục hơn nữa.
Anh nói : ” Kim Lân là con đẻ của đất Kinh Bắc. Đỗ Chu cũng thế. Trẻ con có học hành gì đâu mà viết rất hay : Thung lũng cò, Hương cỏ mật… Vợ nhặt của Kim Lân thì văn tuyệt hay. Con người Kim Lân rât thích. Hồn nhiên, chân thật, tiếp xúc không phải ý tứ gì. Có Kim Lân, mình cũng bớt lố bịch, cứ lấy ông ta làm chuẩn. Nguyễn Tuân còn điệu bộ, làm dáng. Tôi rất ghét uốn éo, điệu bộ. Rất ghét cái ông Vũ Kỳ bắt chước Cụ Hồ : áo bà ba, đi guốc mộc tiếp khách.
Muối của rừng, Thiệp viết rất giỏi. Hemingway viết Ông già và biển cả còn dài dòng. Thiệp viết cực ngắn. Đi săn, trang bị đầy đủ. Cuối cùng cởi truồng trở về. Lại còn bị lũ khỉ giễu cợt. Không có vua có cái chi tiết bố chồng dòm con dâu tắm. Sợ quá !
Nhưng bây giờ xem ra hết tài rồi. Viết tiểu thuyết Tuổi 20 yêu dấu, rồi truyện võ hiệp, thành ngòi bút khác mất rồi.
Ma Văn Kháng là dân Hà Nội, viết về dân tộc thiểu số cứ xôm cốp bên ngoài thế thôi. Phải viết về dân tộc mình, về cái mình thuộc, mình am hiểu chứ.
Tô Hoài thì rất tinh quái, rất hóm. Nguyễn Đình Thi đẹp trai, hấp dẫn gái, thế mà toàn ăn của thừa. Mình phải ăn từ bếp lên chứ ! Này, có lần tôi đến LM gọi cửa mãi, thấy đi ra, khuy ngực xốc xếch. Bên trong thấy có Tô Hoài.”
Nguyễn Khải cho kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ 7 là tốt : ” Ban chấp hành như thế là khác trước rồi. Trước đây, vào chấp hành, thằng nào cũng để kiếm chác một cái gì đó : một chỗ dựa, một chỗ có tiền, một suất đi nước ngoài… Giờ bọn Vàng Anh, Hồ Anh Thái nó chẳng cần gì ! Đừng hòng Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm bảo được nó. Nó không nghe đâu ! “.
Nguyễn Khải cho viết văn là phải có tư tưởng. Vì thế anh chịu khó đọc sách, gần đây hay đọc triết. Hình như có một bậc thánh hiền nào đó nói rằng, đọc sách mà không nghĩ thì vô dụng, nghĩ mà không đọc sách thì nghĩ lung tung rất nguy hiểm. Nguyễn Khải chịu đọc và chịu nghĩ.
Một lần tôi đến anh, thấy anh đặt trên bàn cuốn Tinh thần pháp luật của Montesquieu. Anh nói : ” Lâu nay chúng ta chỉ đi bên cạnh nền văn minh nhân loại. Nói thế là đủ hiểu. Chẳng biết gì. Phủ nhận tất cả những cái gọi là phi vô sản. Bây giờ mình mới được đọc những Montesquieu, Voltaire, Rousseau…
Đọc triết học phương Đông từ Cao Xuân Huy, Nguyễn Hiến Lê… đến khi đọc bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến, cuốn Bàn về tính hiệu quả (4), mới ngộ ra được. Phải nhìn từ xa, tuân theo quy luật tự nhiên. Gò ép nó, cải tạo nó là hỏng. Liên Xô cứ đòi uốn nó, cải tạo nó. Cải tạo sao được con người. Con người không thể cải tạo được. Bây giờ đấy : đủ cả mafia rất ghê gớm “.
Hoàng Ngọc Hiến dịch triết rất hay mà chả thấm được triết. Cứ tức tối, căm thù. Tôi rất quý Hoàng Ngọc Hiến, nhưng đọc bài của Hiến (có lẽ là bài trên Talawas) tôi không thích nữa.
Về điểm này, tôi chưa thật hiểu rõ ý của Nguyễn Khải.
Tôi nhớ ông Tolstoi già trong Chiến tranh và hoà bình có luận về tình yêu của con người và tình yêu của Thượng đế. Khi yêu bằng tình yêu của con người thì có thể từ yêu thương chuyển sang thù ghét, còn tình yêu của Thượng đế thì có thể thương yêu cả kẻ thù, thậm chí cảm thấy vui sướng khi thương yêu kẻ thù. Ăngđré Bôncônxki, trong giờ phút hấp hối, đã thấy mình bỗng có được tình yêu đó. Anh ta vui sướng khi thấy mình thương cả Anatole là kẻ tình địch của mình.
Nguyễn Khải muốn có thứ tình yêu cao cả đó chăng, mà anh gọi là thái độ triết học ?
Điều đó có phải là một điềm gở ở anh không ?
*
Tôi gặp Nguyễn Khải lần cuối cùng ngày 24.7.2007 (cùng với Hồ Quốc Hùng). Tất nhiên khi anh mất rồi mới biết đấy là lần cuối cùng : Thật không ngờ ! Tôi cứ tưởng sẽ còn nhiều lần được gặp anh. Anh với tôi cùng sinh một năm (1930), nhưng anh còn sinh sau tôi tới chín tháng (tôi sinh đầu năm – tháng ba, anh sinh cuối năm – tháng chạp).
Anh đi đâu về. Trông thấy anh, tôi bấm bụng cười thầm vì chợt nghĩ đến nhận xét rất đúng nhưng rất tục của Đỗ Chu hồi nào : ” Răng hơi hô, trông lúc nào cũng như hớn hở, đi ngực ưỡn, hai tay ve vẩy, trông như con đàn bà nứng l. “.
Nhưng bây giờ thì anh có vẻ yếu rồi, chống ba toong, cao lênh khênh, đi lòng khòng.
Anh vẫn nói nhiều. Nào chuyện tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, kho tài liệu giúp anh viết về chính quyền Sài Gòn, nào chuyện cải cách ruộng đất xoá sạch thành tích cách mạng, chuyện Chế Lan Viên chết rất khổ. Khổ mà rất khí khái, không xin xỏ gì hết, tuy Tố Hữu, Hà Xuân Trường đến thăm luôn, chuyện Nguyễn Tuân, chuyện Nguyễn Huy Thiệp, chuyện Cụ Hồ và tướng Giáp rất giỏi nín nhịn…
Anh nói đang viết một bài gọi là sự hình thành một bút pháp. Từ thực tế sáng tác của mình mà viết. Xưa đã thấy người nông dân cần có tầm mắt nhìn xa vượt ra khỏi sự hẹp hòi của hợp tác xã. Nhưng vượt ra bằng cách nào chưa biết. Nay mới thấy có điều kiện : kinh tế thị trường giải phóng cho nông dân…
Anh nói rất nhớ Hà Nội. Thèm không khí Hà Nội. Vào Sài Gòn anh chẳng chơi với một bạn mới nào. Ra Hà Nội bây giờ cũng lại chỉ đến những bạn cũ đã già. Không nói chuyện với đám trẻ được. ” Người ta nói sáu mươi tuổi thì tính năm, bẩy mươi tính tháng, tám mươi tính ngày… Tôi muốn sống lâu để xem thời thế ra sao. Lịch sử do con người làm ra, làm sao biết trước được ! ”
Tôi nhớ lại ngày xưa anh đã có một câu nói gở rất thiêng về Nguyễn Tuân. Anh khen Nguyễn Tuân đẹp lão và nói : ” Đẹp lão thế là sắp sửa đấy ! “. Ba ngày sau Nguyễn Tuân qua đời.
Bây giờ anh nói bẩy mươi tuổi tính tháng.
Anh nói ngày 24.7.2007.
Năm tháng sau, ngày 15.1.2008, nghe tin anh qua đời.
Đúng là tuổi bẩy mươi tính tháng.
*
Ngay sau khi Nguyễn Khải mất, tôi có anh bạn (Hoàng Dũng) trong Nam ra Hà Nội, nói Nguyễn Khải chết không có đất chôn.Đúng ra là không được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức), phải đưa lên nghĩa địa Củ Chi rất xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài những ông thành uỷ viên hay trung ương uỷ viên không kể, phải có 65 năm tuổi đảng. Trần Duy Châu, nguyên hiệu phó Đại học Sư phạm Sài Gòn, khi chết mới có 58 tuổi đảng, không đủ tiêu chuẩn, phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất nhiên cũng phải đưa đi Củ Chi.
Võ Văn Kiệt thấy thế chắc lấy làm xấu hổ, nên can thiệp. Ông tuyên bố nhường suất chôn ở Thủ Đức của ông cho Nguyễn Khải.
Láng Hạ 23.1.2008.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
(Trích HỒI KÍ, chương 19)
CHÚ THÍCH CỦA DIỄN ĐÀN :
(1) Năm 1979. “Đề dẫn” của Nguyên Ngọc (bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam) và bài viết của Hoàng Ngọc Hiến (văn học Việt Nam 1945-1975 là một nền “văn học phải đạo”) là dịp để Tố Hữu, Chế Lan Viên… mở một cuộc càn quét, truy lùng “bọn chống đảng” trong giới văn nghệ.
(2) Anh Thơ và Đặng Thai Mai.
(3) Đúng ra là bà Nguyễn Phước Đại, sau 1975 mở quán “Blibliothèque”.
(4) François Jullien.
NGUỒN: http://vanchuong.vnweblogs.com/post/2192/90366
VỀ NHỮNG BÀI VIẾT CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH ĐỐI VỚI NGUYỄN KHẢI
Văn hóa đọc của nhiều người chán thật. Khi đặt bút viết, dù là dạng gì, truyện, thơ, hồi ký, bình… đều có chủ ý của người viết. Người đọc nên xem như mình đang đọc để hưởng thụ, để nhận thức và có tích lũy riêng cho mình, theo chính kiến của mình. Mỗi người mỗi phong cách, mỗi người mỗi lối hành văn… Có loại văn bác học, có loại đời thường, dân dã nhưng cũng có loại mang vẻ đời thường nhưng hàm ý sâu sắc hơn cả lối văn từ bác học.
Mong rằng, những người đọc người khác, nếu phê bình thì làm hẳn bài phê bình cho rõ nhận thức và tư tưởng, không thì hãy đón nhận như món khai vị, hoặc món chính ngon, hoặc món tráng miệng với ai đó là rất ngon nhưng với người khác có thể là rất dở. Chẳng ai bắt được khẩu vị mọi người đều giống nhau, đó là điều không tưởng. Đừng xúc phạm những người viết văn, những nhà tư tưởng.
Với tôi, chọn lối viết dẫn dắt thực tế qua việc trích dẫn những câu, từ, sự việc đời thường là lối viết văn hiện thực rất có ích. Nó giúp người ta hiểu được cái thực tế đang diễn ra và tự do suy luận qua thực tế đó. Không có sự gò ép định hướng, không có sự che đậy. Nó thật sự sinh động. Trong mọi giới thì giới trí thức cao siêu và giới văn nghệ là những kẻ không bình thường nhất, gàn dở nhất nhưng nếu không ai viết thì thiên hạ làm sao hình dung nổi đời sống thực của họ. Họ cũng là con người, nói tục, chửi bậy, hâm dở như bao người khác. Đó là cuộc sống của họ chẳng có gì là xấu và viết ra cũng chẳng có gì là xấu. Nhưng cho dù là các nhà văn chuyên nghiệp cũng đôi khi bị lẫn cảm xúc khi mô tả cảnh thực. Nhưng người đọc có thể đọc và hiểu, hợp thì tâm đắc, không hợp thì bỏ qua và ghi nhận đoạn này làm kém đi chất lượng của tác phẩm. Ai cũng là vĩ nhân thì khái niệm về vĩ nhân chẳng có ý nghĩa nữa rồi.
Tôi chỉ là người ngoài đạo, thuộc loại hưởng thu văn học chứ không phải loại sáng tác hay phê bình. Nhưng tôi cũng muốn có đôi điều như vậy, xem như là giao lưu, trao đổi. Tôi rất mừng vì các nhà văn, nhà thơ, những nhà phê bình văn học, các nhà tư tưởng và các nhà báo bây giờ còn có tâm hồn một chút. Tức là họ viết, họ nói có trí, khí thực sự chứ không phải nói như không nói, viết như không viết vì toàn nhại lại những điều rỗng tuếch hay nói, viết những cái tự tưởng tượng ra, tô vẽ lên rặt một màu hồng với phe ta, rặt màu đen tối với nhưng người không cùng chính kiến hoạc có hành vi vi phạm pháp luật…
Viết như Nguyễn Khải tự nhận là sự thừa nhận cay đắng cả sự nghiệp văn chương cũng chỉ là mấy cân giấy lộn, chục năm sau chẳng ai nhớ, không có đứa con để đời. Thế không gọi là nhà văn, chỉ là những người làm nghề viết, quảng bá qua hình thức văn chương. Các nhà báo đài hiện còn không thấy xấu hổ khi đi đến các đơn vị đề nghị hỗ trợ tiền để viết bài, đăng tin qua các hợp đồng hẳn hoi. Ai thèm đọc thứ tin tức được trả tiền đăng trên báo chứ. Đó là loại thông tin không khách quan, gần với sự sắp đặt giả dối.
Đang có hứng thì góp mấy câu vậy. Nếu không đúng ý ai đó thì cũng thông cảm nhé.
Viết bởi Ngọc Sen |http://vanchuong.vnweblogs.com/post/2192/90366 17/11/2008, 12:05
ĐÊM CUỐI NĂM ĐỌC HỒI KÝ CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Chẳng còn nhiều thời gian nữa là hết năm 2008, nhiều điều muốn nói khi cách đây mấy tháng tôi có đọc qua mấy chương trong “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”. Hôm nay, quyết định dành chút thời gian nói ra vài điều sau đây:
1. Hồi ký là viết ra sự thật mà bản thân tác giả hồi ký phải khẳng định, thế mà hầu như các sự kiện được GS Mạnh nêu ra là nghe người này nói, nghe người kia kể. Do vậy, cách viết này rất nguy hiểm, gây sự hoang mang, reo rắc sự hoài nghi vào những con người và các sự kiện lịch sử của Dân tộc Việt Nam.
2. Cách viết của GS Mạnh về mỗi con người và sự kiện, dù khen hay chê, thì sau khi đọc xong, người đọc đều nhận biết được: Chỉ có GS Mạnh là vĩ đại. Cái cao thâm của GS Mạnh là ở chỗ đó, mấy người có được. Đặc biệt là cái đoạn mạt sát cha con Xuân Đức- Tuấn Anh(Thanh hóa). “Con hơn cha là nhà có phúc”, nếu học trò Tuấn Anh có bài phê bình Thầy của mình(GS Mạnh), thì phải xem đó là phúc lớn của cái nhà văn học. Ấy thế mà, một GS, nhà giáo nhân dân lại đem học trò và cả bố học trò ra để bêu riếu, đó là chưa kể lúc này học trò đã năm yên dưới mồ. Chỉ một câu nói về cái chết của Tuấn Anh: ” Do một cơn vĩ cuồng…, Tuấn Anh đã nhảy lầu tự tử khi đang làm NCS ở Nga”, cũng làm người đọc thấy ghê sợ phẩm chất của NHÀ GIÁO NHÂN DÂN. Nhân cách, tâm hồn của NGND mà như vậy ư ? Tầm thường quá, hẹp hòi và ích kỹ quá.
3. Giá như trước khi viết Hồi ký như thế này, tác giả nên trả lại các chức danh và danh hiệu cao quý: Giáo sư, nhà giáo nhân dân…, thì tốt biết bao. Vì làm như vậy, sẽ giúp hàng triệu nhà giáo trẻ tuổi có niềm tin để cố gắng rèn luyện, phấn đấu để đạt được một trong những danh hiệu như GS Mạnh.
Viết bởi Le Nguyen Ngoc |31/12/2008, 04:05
http://vanchuong.vnweblogs.com/post/2192/90366
Trong các bài viết về Nguyễn Khải có bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh, người đang có những khen chê trái chiều về cái “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”. Để hiểu sâu hơn, tôi chép thêm phản hồi của Văn hóa Nghệ An và Nhà văn Nguyên Ngọc
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
(VHNA): Nhà giáo nhân dân, giáo sư, nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh tham gia hoạt động trong sự nghiệp giáo dục từ những năm 1950, được tặng Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất năm 1986; Huân chương lao động hạng hai năm 1998; được phong GS năm 1991, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 1990 và Nhà giáo Nhân dân năm 2002. Năm 2000 ông nhận giải thưởng Nhà nước. Vào tháng 3 năm 2010, Khoa ngữ văn Đại học sư pham 1 Hà Nội đã tổ chức kỉ niệm nhân dịp Nhà giáo nhân dân – Giáo sư – Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh tròn 80 tuổi. Ngày 9 tháng 5 năm 2010 học sinh và bạn bè của Gs từ nhiều miền đất nước lại kỉ niệm nhân dịp ra mắt cuốn sách Người và nghề viết về ông do Nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản..
Gs Nguyễn Đăng Mạnh giảng dạy tại trường Đại học sư phạm Vinh từ 1960 -1968, đã có nhiều đóng góp với sự nghiệp giáo dục đào tạo của Nghệ An, và xứ Nghệ . Tạp chí Văn hóa Nghệ An xin trân trọng giới thiệu một số bài viết về ông và xin được xem như một lời chúc mừng giáo sư nhân dịp thượng thọ.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH – NGƯỜI “ĐỌC” TINH CÁC NHÀ VĂN
Tác giả: Nhà văn Nguyên Ngọc
http://www.vanhoanghean.com.vn/tap-chi/nhung-goc-nhin-van-hoa/638-nguyen-dang-manh-nguoi-qdocq-tinh-cac-nha-van.html
Một người làm phê bình văn học, tôi nghĩ, nói theo cách nào đó, là người “đọc” các nhà văn. Có những người viết rất nhiều về một nhà văn nào đó, với vô số phân tích dông dài và uyên bác, viện đủ thứ lý luận cao siêu, nhưng rốt cuộc vẫn không “đọc” ra được nhà văn là đối tượng đang nói đến của anh, không cho ta thấy được vậy thì nhà văn đang được nói đến đó là ai, diện mạo thật của anh ta ra sao, không đưa được cho ta cái chìa khóa, thường hóa ra lại rất đơn giản, giúp ta đi vào thế giới riêng của nhà văn ấy. Và mỗi nhà văn, đúng là nhà văn, thì bao giờ cũng đơn nhất, không có hai, không lặp lại; chính vì thế mà anh ta là nhà văn – chứ không phải chỉ là một người viết –; có thể có, có thể cần những người viết giống nhau, thậm chí nhiều người như vậy, nhưng không cần hai nhà văn giống hệt nhau, nếu có thì hẳn phải bớt đi một. Và “đọc” đúng một nhà văn không phải là ở đề tài của anh ta, điều ấy thì chắc chắn rồi, cũng không phải ở chủ đề, ở nhân vật quen thuộc của anh, thậm chí ở cái mà người ta thường hay gọi là tư tưởng của anh. Cái nhà phê bình giỏi đọc được ở mỗi nhà văn nằm ở đâu đó giữa những cái vừa nói, và tất nhiên nhiều cái khác nữa, ở trong, ở giữa những cái ấy, tiềm tàng, vừa có trong từng cái vừa có thể là tổng hòa của tất cả, hay đúng hơn, một cái “chất” gì đó “nhiễm” trong ấy, vừa là bẩm sinh, trời cho, trời gán cho, buộc cho, vùng vẫy gỡ ra cũng không được, vừa do cuộc từng trải cũng là duy nhất ở đời của anh ta, tự giác và không tự giác, lâu dài nhiễm vào anh. Tôi muốn gọi đấy là cái TẠNG của từng nhà văn, anh ta cũng viết về nhiều chuyện như những người khác, nhưng tuyệt đối không giống ai, đơn nhất là của riêng anh thôi, thậm chí nói cho to tát một chút, chính vì đều đó mà cần có anh trên đời. Đọc ra được cái tạng ấy của từng người cầm bút là cái tài của người phê bình. Độc giả cần anh; nhà văn cũng cần anh.
Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà phê bình như vậy. Anh sắc sảo ư? Cũng có. Anh uyên bác ư? Không thua nhiều người khác. Thâm thúy ư? Rất nhiều khi… Nhưng có lẽ quý nhất ở anh là cái tài kia, quả thật tôi thấy không nhiều ở những nhà phê bình của ta: anh đọc ra đúng cái tạng riêng của từng người, không ít. Hầu như ở nhà văn nào anh chạm đến, anh cũng đọc ra được cái ấy, thường chỉ cần diễn đạt không bằng nhiều lời, đôi khi chỉ bằng một vài chữ. Mà khiến người ta có thể ồ lên một tiếng: đúng rồi! Đây có thể là một trong những con đường khai mở tốt nhất giúp người đọc thật sự đi vào thế giới sáng tạo riêng của từng nhà văn. Mà một nền văn học chính là được tạo nên bằng chính những thế giới sáng tạo đơn nhất ấy.
Một nhà phê bình làm được điều đó cũng đồng thời giúp được nhà văn tự biết mình một cách tự giác hơn, để mà biết nên tiến tới hay lùi lại như thế nào, có cần không, đến đâu; điều vốn rất khó đối với một người cầm bút sáng tạo. Nhà phê bình không làm được công việc của nhà văn, nhưng anh có điều kiện để tỉnh táo hơn – tất nhiên nếu quả anh có tài. Và khi anh đọc được cái tạng của nhà văn, thì anh sẽ gợi được cho nhà văn suy nghĩ về chính mình, tỉnh táo hơn, điều người đang sáng tạo thường khó có vì đang mãi đam mê. Người đang sáng tạo có gì đó giống như người say rượu vậy; lúc đó mà họ tỉnh thì thường chẳng ra gì. Người phê bình ở bên cạnh, ân cần, tinh tế, chăm chú đọc. Đọc một tâm hồn, một giọng điệu tâm hồn. Và lần ra cái tôi gọi là cái tạng. Theo nghĩa đó, anh là người bạn tâm đắc của nhà văn. Tôi nghĩ tôi tìm thấy được một người bạn như vậy ở Nguyễn Đăng Mạnh
Nguyễn Đăng Mạnh viết về tôi rất ít, hình như chỉ có hai lần, và lần nào cũng rất ngắn. Nhưng có lẽ anh là người đọc ra chính xác hơn cả cái tạng của tôi mà anh diễn đạt chỉ bằng mấy chữ: “con người lãng mạn”. Là một lời khen hay một lời chê? Có lẽ điều đó không phải là quan trọng nhất. Quan trọng hơn là nó khiến tôi suy nghĩ. Bởi tôi không hề ân hận vì đã sống cuộc đời này một cách lãng mạn, dấn thân đến cùng thật lãng mạn, không hề tiếc. Nhưng nhận xét tỉnh táo và chính xác của Nguyễn Đăng Mạnh cũng cảnh báo tôi: có phải tôi đã có phần quá lãng mạn hóa một cuộc đời hiện thực khiến cho điều tôi nói với người đọc đôi khi không khéo là đánh lừa họ, dẫu tôi không bao giờ muốn? Một cảnh báo như vậy cần cho tôi vô cùng. Một chỗ mạnh của một cây bút dường như bao giờ cũng bao gộp cả chính chỗ yếu của anh ta nữa. Và biết được điều đó là cần thiết lắm, chỉ ra được điều đó cho một người cầm bút là rất giỏi. Để giúp anh tìm lấy cái mạnh trong chính cái yếu của mình, tự điều chỉnh, dù chẳng dễ gì.
Tôi muốn cảm ơn anh Mạnh về điều đó. Không dễ có được một người bạn như vậy trong đời, tôi biết, nhất là khi đã dấn vào cái nghề, cái nghiệp phải moi đến tận đáy chính mình, cho đến tế bào cuối cùng ra mà đánh đổi suốt đời này!
Pingback: Niềm tin và nghị lực « Thung dung